VIETNAM
NEWS NETWORK
(VNN)
P.O
Box
661162
Sacramento
,
CA
95866
Phone & Fax: 916-480-2724
Email: vnn@vnn-news.com <mailto:vnn@vnn-news.com>
Website: www.vnn-news.com <http://www.vnn-news.com/>
**********************************
Bài Vở Hàng Ngày
Ngày 20 Tháng 09 Năm 2007
**********************************
1- Thời Sự Việt
Nam
- Lăng Ba Vi Bộ
Trần Khải
2- Tin Tức Quốc Nội
- Thư của nhà báo
tự do Lê Xuân Lập gửi thủ tướng CSVN
Nguyễn Tấn Dũng
3- Ðọc Báo Ngoại Quốc
- Intelasia Bị "Cây
Gậy Lớn" Tấn Công Ở Việt Nam
Peter J Leech Intellasia.net (17/9/07) -
Khánh Ðăng lược dịch
4- Tham Khảo
- Minh định với ông
Nguyễn Minh Triết về điều 4 Hiến pháp trên
quan điểm pháp lý và chính trị, văn hóa và đạo
lý
Ls Nguyễn Hữu Thống
5- Câu Chuyện Việt
Nam
- Chuyện không thể không
kể
Văn Quang
6- Văn Học Nghệ Thuật
- Mối Tình Việt Ấn
Nguyễn Phan Ngọc An
**********************************
1- Thời Sự Việt
Nam
- Lăng Ba Vi Bộ
Trần Khải
(VNN)
Gọi dài dòng là Lăng Ba Vi Bộ. Gọi
ngắn gọn là võ Lạng. Xuất phát từ truyện võ
hiệp Kim Dung, Lăng Ba Vi Bộ là một môn võ lạng
qua lạng lại, để người khác không níu
được áo của mình, và nhà nứơc CSVN
trước giờ theo truyền thống vẫn là cao
thủ thượng thừa về môn võ Lạng naỳ.
Ðộc chiêu này đã được truyền
thừa từ ông Hồ Chí Minh tới giờ. Không chỉ
để xài cho các chuyện linh tinh trong đời
thường, mà xài cả cho các chuyện lớn như
quốc sự vẫn được. Linh tinh đời
thường thì ai cũng biết rồi: chỉ vèo
một cái là Bác dứt áo ra đi, tha hồ cho các nàng
nắm gió, đừng hòng níu tới cái chéo áo của Bác.
Còn chuyện quốc sự thì thấy đó: xóa sổ
biết bao nhiêu là mảng lịch sử, từ chuyện
Tết Mậu Thân cho tới Hiệp Ước
Paris
, không ai chèo kéo
trách nhiệm gì được với Ðảng CSVN. Thêm
nữa, quyền viết lịch sử đã trao cho Hà
Nội rồi, còn ai mà chụp bắt được.
Thế mới biết, cao thủ thi triển Lăng Ba Vi
Bộ đã tới mức thượng thừa.
Nhưng lần này, có vẻ như môn võ Lăng Ba
Vi Bộ đã bị chụp trúng ở một góc thủ
đô Hoa Kỳ. Có phải chăng vì võ Lạng hết linh?
Thế đấy, dự luật nhân quyền cho
VN vừa được Hạ Viện Mỹ thông qua hôm
Thứ Ba 18-9-2007. Bản tin từ văn phòng Dân Biểu
Loretta Sanchez gửi hôm Thứ Ba viết, trích:
"SANCHEZ ỦNG Hộ Dự
LUẬT NHÂN QUYỀN CHO VIỆT NAM 2007
WASHINGTON, D.C. - Hôm nay, Dân Biểu
Loretta Sanchez liên kết với các Dân Biểu Liên Bang Hoa
Kỳ để ủng hộ Dự Luật Nhân Quyền
Cho Việt Nam 2007, H.R. 3096. Hạ Viện Quốc Hội
Hoa Kỳ thông qua nghị quyết 3096 (H.Res. 3096) với
số phiếu 414 -3
Hôm qua, Sanchez đọc bản
tuyên bố để bày tỏ lòng ủng hộ nhiệt
quyết đến với Dự Luật Nhân Quyền Cho
Việt Nam 2007. Bà thảo luận về sự đàn áp
nhân quyền mà Việt Nam tiếp tục duy trì. Bà nói
đây là thời điểm quan trọng mà Hoa Kỳ
cần phải tạo áp lực để chính quyền
Việt Nam thay đổi chính sách đàn áp..." (hết
trích)
Thế là bà dân biểu Loretta
Sanchez cũng cao thủ đấy nhé, ra chiêu nhanh như
chớp, chận được môn võ Lạng của nhà
nước CSVN khi bác Triết, bác Dũng tính màn chạy
thoát trách nhiệm nhân quyền...
Dân biểu Ed Royce (cũng Quận
Cam, Calif.) tuyên bố sau khi Hạ Viện bỏ phiếu
xong: "Tôi hài lòng rằng Dự Luật Nhân Quyền
Việt Nam đã thông qua Hạ Viện với phiếu áp
đảo. Ðiều này gửi một thông điệp không
nhầm lẫn cho Hà Nội rằng họ không thể
tiếp tục việc bất kễ quan tâm tới nhân
quyền." (hết trích)
Câu hỏi nơi đây rằng,
lên Thượng Viện Mỹ, đảng CSVN có xài võ
Lạng được hay không? Hay là rồi sẽ có
một Thượng Nghị Sĩ John Kerry khác tiếp
trợ Hà Nội?
Ðó là quan tâm của Ủy Ban
Tự Do Tôn Giáo Cho Việt Nam (CRFV), khi cơ quan này nghĩ
tới chiến dịch mới, bắt đầu tìm hình
ảnh các nhà Tranh Ðấu Dân Chủ Trong Nước
để hoàn thành những Postcards Vận Ðộng Dự
Luật Nhân Quyền 2007 Tại Thượng Viện.
Thư ngaỳ 17-9-2007 của bà Ngô Thị Hiền
(ngothihien@gmail.com) chủ tịch Ủy Ban này viết, trích:
"...để dự luật
này được thông qua Thượng Viện Hoa Kỳ
sẽ rất cam go. (Dự Luật đã bị thất
bại hai lần tại thượng viện, mặc dù
được thông qua tại hạ viện với tỉ
số tuyệt đối). Vì vậy Ủy Ban TDTG và
Ủy Ban Cứu Người Vượt Biển dự
định con đường vận động DL/NQ
tại thượng viện như sau:
- Nhờ DB Chris Smith giữ dự
luật tại Hạ Viện, chưa vội chuyển lên
Thượng Viện, khi chúng ta chưa vận động
đầy đủ, để tránh trường hợp
như TNS John Kerry trước đây. Khi một TNS cầm
giữ dự luật rồi thì dù chúng ta vận
động thế nào cũng khó cho vị này trả
lại tự do cho dự luật được biểu
quyết tại thượng viện.
- Việc đầu tiên mà chúng tôi
vận động là in ít nhất 10,000 postcards gồm 3
loại hình khác nhau, gồm nhiều nhà tranh đấu dân
chủ và lãnh đạo tinh thần bị cầm tù và bản
án của họ.
Anh Bùi Quang Lâm tại Arizona,
một đại ân nhân của Ủy Ban TDTG sẽ in
tặng cộng đồng hải ngoại những
postcards này.
Ðể có thể in được
những postcards đẹp, rõ; chúng tôi cần hình của
các nhà tranh đấu mà chúng tôi hoặc thiếu, hoặc
không có hình ảnh rõ nét
Danh sách các nhà dân chủ mà chúng tôi
cần là:
- Hang Tấn Phát
- Vũ Hoàng Hải
- Nguyễn Ngọc Quang (Bạch Ðằng Giang
Foundation)
- Phạm Bá Hải
- Lê Nguyên Sang
- Huỳnh Nguyên Ðạo
- Nguyễn Bắc Truyển
- Ðoàn Hữu Chương
- Nguyễn Tuấn
- Trần Thị Thùy Trang
- Hồ Thị Bích Khương
- Trần Quốc Hiển
- Lê Bá Triết
- Nguyên Phong
- Nguyễn Bình Thành
Chúng tôi tha htiết ước mong
quí vị chủ diễn đàn, quí báo chí và quí đồng
hương nếu có hình các nhà dân chủ nêu trên, xin nhín chút
thì giờ gởi cho chúng tôi qua e-mail: ngothihien@gmail.com
Mong quí vị gởi cho chúng tôi
càng sớm càng tốt, để chúng tôi có thể hoàn thành
các postcards này trong thời gian ngắn nhất, để
kịp vận động dự luật nhân quyền
tại Thượng Viện..." (hết trích)
Ðiều cần suy nghĩ, có
vẻ như Bạch Ốc và Bộ Ngoaị Giao đang
muốn đưa tay ra cứu Hà Nội. Nếu
độc giả nhớ rằng, theo lịch trình Hạ
Viện bàn về dự luật vào Thứ Hai 17-9-2005, thì
trứơc đó 3 ngày, hôm Thứ Sáu, Bộ Ngoại Giao
Hoa Kỳ đưa bản phúc trình tự do tôn giaó, khen
ngợi Hà Nội quá lời. Tại sao không giữ bản
phúc trình thêm vài ngài để võ Lạng khó thi triển?
Nếu nhìn ra quốc tế,
độc giả cũng có thể thấy không chỉ
chính phủ ông Bush, mà ngay chính phủ Cộng Hòa Tiệp
mấy hôm trước cũng dàn dựng để Thủ
Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng ra chiêu Lăng Ba Vi
Bộ ngay giữa Prague.
Bản tin Czech News Agency (CTK)
từ Prague hôm 17-9-2007 viết rằng các nhà lãnh đạo
Tiệp đã đón Thủ Tướng Nguyễn Tấn
Dũng tưng bừng "bất kể tới bản
nghị quyết trước đó của Quốc Hội
Âu Châu chỉ trích chế độ VN vi phạm nhân
quyền, theo tuần báo Tyden.
"Trong nghị quyết ra
hồi giữa tháng 7-2007, Quốc Hội Âu Châu chỉ trích
đợt đàn áp mới ở VN trong đó ít nhất 15
nhà lãnh đaọ bất đồng chính kiến bị án
tù dài hạn kể từ mùa xuân, theo số mới nhất
của tuần báo Tyden hôm Thứ Hai.
"Không chính khách Tiệp nào có
lẽ từng đọc bản nghị quyết Quốc
Hội Âu Châu, cho nên chuyến thăm Tiệp của
Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng tuần
trước không hề bị các lãnh đạo Cộng Hòa
Tiệp nặng nhẹ lời chỉ trích nào, theo báo Tyden.
"Ngay như Ðài Truyền Hình
qúôc doanh Czech Telkevision cũng chẳng bận tâm nói rằng
còn một chế độ CS toàn trị đang cai trị
ở Việt Nam, theo baó này.
"Quan hệ giữa 2
nước chúng ta chưa bao giờ tốt hơn bây
giờ," theo lời Thủ Tướng tiệp Mirek
Topolanek..." (hết dịch)
Trời ạ, thế mới
biết rằng tuyệt chiêu Lăng ba Vi Bộ của ông
Dũng đã tới thượng thừa.
Không ai chụp được
một chéo áo nào về vi phạm nhân quyến sao?
Bây giờ là Hạ Viện Mỹ
chụp được một chút rồi, cần thêm
Thượng Viện Mỹ nữa, rồi tới chữ
ký TT Bush.
Ðể rồi xem võ Lạng
của ông Dũng hay tới đâu. Ráng chờ xem.
=END=
2- Tin Tức Quốc Nội
- Thư của nhà báo tự do Lê Xuân Lập
gửi thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng
* Nhà báo tự do Lê Xuân Lập (blog)
Ðây là lá thư của đảng viên Lê Xuân
Lập, một nhà báo tự do trong nước, viết trên
trang blog của mình nói về tình trạng tuyên truyền
một chiều của báo chí trong nước. Không biết
người đứng đầu chính phủ CSVN trả
lời thế nào về thực tế truyền thông báo chí
trong nước, và kiến nghị "xin được
ra báo tư nhân" này của nhà báo tự do Lê Xuân Lập,
hay là sẽ lờ đi như từ trước tới
nay. Nhà báo Lê Xuân Lập viết:
Sau rất nhiều cân nhắc, hôm nay mình quyết
định gởi cho người đứng đầu
Chính phủ bức thư này, không biết nó có đến
được tay người nhận không? Và ông có sẵn
lòng đáp lại thiện chí của mình không? Rất có
thể sự việc sẽ diễn ra không dễ dàng chút
nào, nhưng vì quyền lợi của những người
viết báo tự do và lợi ích cộng đồng mình
sẽ cố gắng làm thật tốt những gì mà
khả năng mình có được.
THƯ GỞI THỦ TƯỚNG
Kính gởi: Thủ Tướng
Nguyễn Tấn Dũng
Hằng ngày theo dõi tin tức trên các phương
tiện truyền thông trong nước tôi nhận thấy
việc tuyên truyền của báo chí chúng ta vẫn mang
nặng tính một chiều kiểu minh họa các chủ
trương chính sách của Ðảng và Nhà nước
như cách làm của nhiều chục năm trước
đây. Chưa có một kênh thông tin mang tính chất phản
biện xã hội nào thực sự hiệu quả, giúp
Ðảng và Chính phủ nhìn nhận một cách rõ nét hơn
mọi vấn đề của cuộc sống
dưới nhiều góc độ khác nhau. Ðọc báo, nghe
đài, xem tivi thường thấy có qúa nhiều tin bài sao
chụp qua lại lẫn nhau; tính hấp dẫn, đa
chiều trong thông tin chưa được thực sự
coi trọng, nhiều tờ báo, nhiều chương trình
phát thanh, truyền hình có rất ít đọc giả và khán,
thính giả; nhiều sự vật hiện tượng
của đời sống xã hội không được
phản ánh một cách khách quan, khoa học; sự mất
cân đối trong thông tin giữa nông thôn và thành thị ngày
càng trở nên trầm trọng...Vậy mà đất
nước ta lại đang tồn tại hơn 600 cơ
quan thông tấn báo chí, cùng hàng chục ngàn nhà báo với hàng
núi trang thiết bị hiện đại thì quả là
một sự lãng phí hết sức to lớn.
Cũng bởi vì Ðảng và Chính phủ luôn luôn yêu
cầu báo chí phải tránh đề cập đến
những đề tài nhạy cảm ví như vấn
đề biên giới, vấn đề khiếu kiện
đông người, vấn đề tự do, dân
chủ...v.v. và v.v... nên vô tình chúng ta đã "nhường sân chơi"
này cho báo chí ngoài nước làm mưa, làm gió. Ðây cũng là
một điểm yếu để các thế lực thù
địch quốc tế có điều kiện tuyên
truyền không tốt về nền dân chủ và nhân
quyền ở nước ta, làm nhiễu loạn thông tin,
phân tán nhân tâm của người đọc.
Trong điều kiện bùng nổ thông tin
hiện nay, để chống lại sự xâm nhập
thông tin từ bên ngoài (thường trái chiều với
thông tin trong nước) chúng ta đang áp dụng một
biện pháp hết sức thủ công là xây dựng một
hệ thống an ninh mạng, lập tường lửa
hoặc phá hỏng những trang tin điện tử mà ta
cho là có hại. Thế nhưng kết quả thực
tế là rất ít ỏi, bởi với sự phát
triển vượt bậc của khoa học công nghệ,
người đọc hoàn toàn có thể dễ dàng vô
hiệu hóa sự che chắn bị động đó.
Sẽ chẳng có một bức tường nào có thể
ngăn cấm được nhu cầu tiếp nhận
thông tin chính đáng, nhiều chiều của người
dân. Còn ở góc độ phản biện thì báo chí trong
nước thường chỉ nói một tiếng nói
rất giống nhau thành thử không mấy thuyết
phục. Gần đây, với sự xuất hiện
của hàng ngàn trang blog cá nhân mỗi ngày mà đa phần
đều có xu hướng nói chuyện chính trị và
sử dụng chế độ công chúng (public) có khả
năng kết nối cao, thì việc quản lý báo chí
như kiểu chúng ta đang làm đã trở nên lỗi
thời và kém hiệu quả.
Ðể khắc phục tình trạng trên, tôi
kiến nghị Nhà nước nên nhanh chóng sửa
đổi Luật Báo chí hiện hành theo hướng
mở rộng tự do hơn nữa có cả "lề phải" lẫn
"lề trái"
cho báo chí; thành lập các tập đoàn báo chí hùng mạnh
theo từng vùng, từng lãnh vực hoạt động, có
đại diện ở nhiều nước và vùng lãnh
thổ trên thế giới; hạn chế việc
đầu tư tràn lan ngân sách cho báo chí; cho phép lập thí
điểm một số hãng tin tư nhân hoạt
động độc lập, trong khuôn khổ pháp
luật, tiến tới thực hiện xã hội hóa báo
chí, Nhà nước chỉ nắm một vài cơ quan thông
tấn báo chí lớn.
Thư này gởi Thủ tướng, cá nhân tôi -
một Ðảng viên Ðảng CSVN, một công dân tốt
của đất nước, được đào
tạo chính quy hệ ÐH tại Học viện Báo chí và Tuyên
truyền quốc gia, kính xin Thủ tướng cho phép tôi thành lập một tờ
báo tư nhân, đi tiên phong trong việc xã
hội hóa báo chí của nước nhà.
Tôi cũng hiểu rằng chiếu theo các quy
định của pháp luật hiện hành thì cá nhân không được phép ra báo,
vì thế trước
hết tôi xin phép Thủ tướng cho lập Hội của những người
viết báo Tự do VN (bao gồm những
nhà báo không làm công ăn lương cho một cơ quan,
tổ chức nào và điều này là hoàn toàn hợp pháp).
Từ Hội này chúng tôi sẽ tiến hành các thủ tục
xin phép ra báo đúng theo quy định của pháp luật.
(tôi xin gởi kèm theo đây bản Ðiều lệ Hội Nhà báo Tự do
VN do tôi dự thảo để Thủ
tướng tham khảo)
Xin gởi tới Thủ tướng lời chúc
sức khỏe trân trọng. Mong sớm nhận
được câu trả lời từ Thủ
tướng!
Biên Hòa ngày 10-9-2007
Người gởi
Lê Xuân Lập
* Sao chụp từ NGHỀ BÁO (Hội Nhà Báo
TP.HCM) số 58 tháng 8.2007
***
* Thư ngỏ
20-12-2006
Kính gửi: Các nhà báo tự do và các
bạn. Cá nhân tôi - một người viết báo tự do
xin gửi tới các đồng nghiệp và tất cả
đội ngũ những người cầm bút cùng toàn thể
các bạn lời chào đoàn kết và kính trọng.
Kính thưa các bạn!
Ngày nay với sự lớn mạnh
của đất nước
Việt Nam đổi mới và tiến nhanh trên con
đường hội nhập quốc tế đã và
đang hình thành ngày càng đông một đội ngũ
những người viết báo tự do, hoạt
động độc lập với các cơ quan báo chí
hiện hữu. Trong số này, có người gắn bó
với nghề báo trong nhiều thập kỷ qua, có
những người đã để lại dấu ấn
đậm nét trong lòng bạn đọc... Nhiều nhà báo
tự do đang ngày đêm lao tâm khổ tứ tạo nên
những tác phẩm báo chí tâm huyết nhưng vì những lý
do khác nhau, nhất là do tính chất riêng cùng những
giới hạn nhất định của từng tờ
báo mà họ cộng tác nên đành phải chấp nhận
vị trí bị nhiều hạn chế, thậm chí bị
lãng quên và những tác phẩm ấy đã không có cơ
hội đến được với bạn
đọc. Các nhà báo tự do còn gặp rất nhiều khó
khăn, trở ngại trong hoạt động nghiệp
vụ, tiếp cận thông tin và chưa được xã
hội thừa nhận. Ước nguyện về một
hội đoàn riêng để khẳng định một
nghề nghiệp có thật, hợp pháp, hữu ích;
để họp mặt, chia sẻ tâm tư đồng
thời giúp đỡ lẫn nhau trong công việc cũng
như trong cuộc sống hàng ngày của các nhà báo tự
do ngày càng trở nên cần thiết và chính đáng.
Từ suy nghĩ đó, cá nhân tôi
đã cố gắng biên soạn bản dự thảo
Ðiều lệ Hội Nhà báo tự do Việt Nam (xem mục
dự thảo Ðiều lệ dưới đây) và xin có
lời mời các bạn tham gia góp ý kiến. Nếu
việc thành lập một tổ chức hội đoàn
của những người viết báo tự do thực
sự là ý nguyện chung của nhiều người, chúng
ta sẽ cùng nhau chung sức hành động để
ước vọng đó mau chóng thành hiện thực. Với
mục đích trong sáng, rõ ràng như vậy, hy vọng
một ngày không xa, Hội Nhà báo tự do Việt Nam sẽ
được thành lập một cách hợp pháp và
những nhà báo tự do Việt Nam sẽ có một Hiệp
hội đủ mạnh, có tiếng nói tin cậy góp
phần tích cực vào sự phát triển tươi sáng
của đất nước.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn
chân thành và mong nhận được sự cộng tác
của các đồng nghiệp, và tất cả các bạn.
Nhà báo, luật gia XUÂN LẬP
***
ÐIỀU LỆ HộI NHÀ BÁO Tự DO
VIỆT NAM
(Dự thảo)
Chương I
TÔN CHỈ MụC ÐÍCH
Ðiều 1:
Hội Nhà báo Tự do Việt Nam là tổ
chức xã hội nghề nghiệp tự nguyện của
những người viết báo tự do
Việt Nam không làm công, ăn lương từ
một cơ quan báo chí nào. Hội hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật của Nhà nước
Việt Nam và Ðiều lệ Hội.
Ðiều 2:
Hội Nhà báo Tự do VN có nhiệm vụ:
- Góp phần bồi dưỡng nâng cao tay
nghề báo chí cho các hội viên nhất là về nghiệp
vụ, kỹ năng viết báo.
- Tham gia xây dựng các chính sách pháp luật của
Nhà nước về thông tin báo chí, vế quyền con
người, thực hiện quyền tự do báo chí,
tự do ngôn luận của công dân theo Hiến pháp, pháp
luật của Nhà nước và Công ước Quốc
tế.
- Liên hệ với các cơ quan báo chí, các tổ
chức xã hội chăm lo đời sống vật
chất và tinh thần cho hội viên. Bảo vệ và giúp
đỡ người viết gặp khó khăn, trở
ngại khi hoạt động nghề nghiệp đúng
pháp luật.
- Hướng dẫn hội viên thực hiện
quy ước, đạo đức nghề nghiệp báo
chí.
Chương II
HộI VIÊN
Ðiều 3:
Hội viên là những người tán thành tôn
chỉ mục đích và Ðiều lệ của Hội,
tự nguyện xin vào Hội và có đủ các điều
kiện sau:
- Có bản lĩnh vững vàng và đạo
đức nghề nghiệp trong sáng, ủng hộ sự
nghiệp đổi mới của đất nước,
có điều kiện hoạt động báo chí, có khả
năng đóng góp vào sự phát triển của Hội.
- Có tác phẩm báo chí, có uy tín nghề nghiệp
được công chúng và đồng nghiệp công
nhận.
- Người muốn tham gia Hội phải có đơn
xin vào Hội, kèm lý lịch tự khai và 2 tác phẩm báo chí
được phổ biến đến công chúng.
Ðiều 4:
Nhiệm vụ của Hội viên:
- Tôn trọng và thi hành Ðiều lệ, Nghị
quyết của Hội, tham gia tích cực các hoạt
động của Hội và đóng hội phí.
- Không ngừng rèn luyện để nâng cao trình
độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp
- Thực hiện đầy đủ quy ước
về đạo đức nghề nghiệp báo chí.
Ðiều 5:
Quyền của Hội viên:
- Ðược thông tin, thảo luận và tham gia các
hoạt động của Hội.
- Ðược ứng cử, đề cử và
bầu người vào BCH Hội.
- Ðược tạo điều kiện đào
tạo, bồi dưỡng về chính trị, nghiệp
vụ, kỹ năng làm báo, được hưởng các
phúc lợi tinh thần, vật chất do hoạt
động của Hội đem lại.
- Ðược Hội bảo vệ và giúp
đỡ lúc gặp trở ngại khi làm nhiệm vụ
báo chí hoặc lúc khó khăn, hoạn nạn và khi tuổi
già sức yếu.
Ðiều 6:
- Hội viên không hoạt động, không sinh
hoạt Hội trong thời gian qúa 6 tháng mà không có lý do chính
đáng thì BCH Hội xem xét xóa tên khỏi Hội.
- Ðối với hội viên cao tuổi hoặc
sức yếu được tạo điều kiện
thuận lợi để tham gia sinh hoạt Hội.
Chương III
NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC CỦA HộI
Ðiều 7:
Hội Nhà báo Tự do
Việt Nam được tổ chức theo nguyên
tắc dân chủ, bình đẳng, bác ái và thực hiện
chế độ lãnh đạo toàn thể, mọi thành
viên đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau
trong đó hạt nhân là Chủ tịch Hội và BCH
Hội.
Ðiều 8:
Ban Chấp hành Hội gồm có:
- 01 Chủ tịch Hội, phụ trách chung
- 01 Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký
- 01 Phó Chủ tịch ngoại vụ
- 01 Phó Chủ tịch nội vụ
- Các ủy viên BCH
Ðiều 9:
Nhiệm vụ của BCH
- Soạn thảo và phổ biến các Nghị
quyết, các báo cáo của Hội.
- Tổ chức các hoạt động nghiệp
vụ và phong trào cho hội viên.
- Tổ chức tổng kết và đề ra
phương hướng hoạt động của
Hội.
Ðiều 10:
Nhiệm kỳ của BCH Hội là 3 năm. Sau
mỗi nhiệm kỳ, BCH có trách nhiệm tổ chức
Ðại hội toàn thể hội viên bầu Chủ
tịch, các Phó Chủ tịch Hội và các ủy viên BCH
Hội.
Chương IV
TÀI CHÍNH CỦA HộI
Ðiều 11:
Tài chính của Hội gồm có:
- Hội phí do hội viên đóng góp.
- Các nguồn thu tài chính, hiện vật do các
hoạt động của Hội mang lại; các nguồn
tài trợ, ủng hộ hợp pháp từ các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước.
Chương V
KHEN THƯỞNG- KỶ LUẬT
Ðiều 12:
Tổ chức Hội, BCH Hội và các hội viên
có thành tích trong hoạt động báo chí và công tác hội
được lãnh đạo Hội khen thưởng.
Ðiều 13:
Tổ chức Hội, BCH Hội và các hội viên
vi phạm điều lệ, vi phạm pháp luật và
đạo đức nghề nghiệp của
người làm báo gây tổn hại danh dự, uy tín
của Hội, thì tùy theo mức độ sai phạm mà thi
hành các hình thức kỷ luật: khiển trách, cảnh
cáo, khai trừ ra khỏi Hội.
Chương VI
ÐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Ðiều 14:
Ðiều lệ Hội Nhà báo tự do
Việt Nam có hiệu lực thi hành khi có 2/3 số
hội viên biểu quyết thông qua. Việc sửa
đổi, bổ sung Ðiều lệ phải
được 2/3 tổng số hội viên tán thành trong
một cuộc họp toàn thể.
Hà Nội ngày 12-06-2006
=END=
3- Ðọc Báo
Ngoại Quốc
- Intelasia Bị "Cây Gậy
Lớn" Tấn Công Ở Việt Nam
Intellasia attacked: The Big Stick
Peter J Leech Intellasia.net (17/9/07)
Khánh Ðăng lược dịch
Công an chính trị CSVN và bộ
văn hóa đã ra lịnh cho trang web intellasia.com, do
người Úc làm chủ và xuất bản, phải đóng
cửa hoặc gặp thêm nhiều sự bách hại nghiêm
trọng, phạt vạ và sách nhiễu đối với
chủ nhân gốc người Úc và bà vợ, cùng với
công ty của ông ta tại Việt Nam, mà những sư
việc này đã và đang xảy ra trong ba tháng qua.
Do đó, để tuân hành, chúng tôi phải
đóng trang web intellasia.com và
chuyển sang trang web phụ, intellasia.net, hoàn
toàn không có sự liên kết nào với intellasia.com và
dịch vụ kinh doanh cung cấp bởi công ty chúng tôi
tại Việt Nam.
Nhưng một lần
nữa Intellasia lại bị đặt
dưới sự tấn công liên
tục tiếp sau cuộc công kích chính thức từ phía chính quyền trên mạng online hồi tháng
trước, khi công an chính trị PA25 của Việt Nam vào
ngày 17 tháng 8 đã xử dụng các tờ báo quốc doanh
trên mạng internet để cố tình phá huỷ uy tín
của Intellasia, và chủ nhân gốc người Úc cùng bà
vợ, về nội dung của các bản tin kinh doanh
của trang web Intellasia.
Tiếp theo những lời
biện hộ được đưa ra sau đó bởi
Intellasia trong cùng một ngày dưới tiêu đề Intellasia
under attack, thì sau đó vào ngày Thứ Tư 21/8, cá nhân tôi
là chủ nhân của trang web đã chính thức bị
phạt 20 triệu đồng VN về vấn đề
chiếu khán visa, mà tôi tin một cách rõ ràng đây là sự
trả đũa ăn miếng trả miếng cho
việc công khai bảo vệ Intellasia và vợ chồng tôi,
về cái mà công an PA25 cho là trang nhà Intellasia.com do
người Úc làm chủ đã hoạt động
"bất hợp pháp".
Ở một mặt trái khác, khi chúng tôi đóng
tiền phạt thì một nữ cán bộ nhà nước
nói rằng bà ta được lệnh công an PA25 cho tôi biết, để
cảnh cáo tôi một cách rõ ràng, gián tiếp qua vợ tôi là
nếu tôi không sớm sủa rời Việt Nam thì "có
nhiều hành động trừng phạt nghiêm trọng
hơn, sẽ được đưa ra để áp
đặt đối với tôi". Cân nhắc về
lời đe doạ này, tôi buộc phải bỏ lại
người vợ và đứa con trai còn nhỏ tại
Việt Nam và quay về Perth, Úc Châu, vào ngày 25/8, là nơi tôi
đang cư trú và biên soạn trang web Intellasia trên căn
bản hàng ngày.
Nhưng sự tấn công
(của công an PA25) không ngừng ở đó. Sau một
thời gian tạm lắng đọng khoảng một,
hai tuần lễ kể từ khi tôi bắt buộc
phải rời Việt Nam, thì bắt đầu vào ngày
Thứ Hai 10/9, công an PA25 đã khởi sự việc
ngăn chặn tách rời trang web intellasia.com làm cho trang web
này không thể truy cập vào được tại
Việt Nam, khi xử dụng các công ty cung cấp dịch
vụ internet từ trong nước.
Cộng thêm là việc công an PA25
trong hai tuần vừa qua đã tiến hành một cuộc
tấn công đồng bộ vào máy chủ của chúng tôi
đặt tại Mỹ, xử dụng cái được
biết qua kỹ thuật là "Brute Force Attacks"
để toan tính xâm nhập vào máy chủ (trên 15 ngàn BFA
chỉ vào riêng một đêm Thứ Bảy), và dùng
nhiều chương trình tấn công DDOS khác nhau (để
làm tê liệt trang web, không thể truy cập
được), và kể từ hôm Thứ Sáu cách đây
một tuần, vào ngày 14/9, sự ngăn chặn kỹ
thuật đã được đưa vào để
chặn đứng tất cả các điện thư
của công ty chúng tôi gởi đi và nhận vào từ Hoa
Kỳ.
Vậy thì vì lý do gì mà Intellasia
bỗng nhiên bị tấn công? Chúng tôi chưa hề
gặp một dấu hiệu nào cho thấy là chúng tôi có
bất cứ vấn đề gì trong quá khứ và không có
sự báo động nào về những việc rối
rắm sẽ đến; đây thật sự là một
tai họa từ trời giáng xuống mà không có lý do. Thêm
nữa, Intellasia chưa bao giờ nhận được
bất cứ thông tư chính thức nào hoặc ngay cả
những lời cảnh báo bán chính thức nếu thật sự công ty
đã vi phạm luật lệ Việt Nam.
Vào ngày 29/6, chúng tôi nhận
được fax từ bộ văn hoá cáo buộc trang
web Intellasia đăng tải những bài báo có nguồn
gốc nước ngoài mang "nội dung xấu".
Rồi công an đến lục soát văn phòng, và chúng tôi
liên tục bị sách nhiễu bởi công an PA25 qua nhiều
tuần lễ với một sự căng thẳng làm
chúng tôi rất giao động.
Cú tấn công đầu tiên của công an PA25
bắt đầu bằng những cáo buộc về
"các bài báo không đúng đắn" trên trang web
Intellasia, và sự buộc tội rất vô lý của PA25.
Rất khó mà hiểu được như thế nào mà các
bản tin tường thuật rất đa dạng
của các hãng thông tấn như AFP, DPA, Reuters, AP hoặc
các phương tiện truyền tải tin tức
điện tử khác và báo chí quốc tế có thể
bị khép vào tội "tuyên truyền chống nhà
nước".
Intellasia trong quá khứ thỉnh
thoảng đã có những bài báo liên quan đến các nhà
tranh đấu lấy xuống từ các phương
tiện truyền tải tin tức điện tử
quốc tế trong 2 năm qua, chúng tôi bao gồm cả
những tin tức này, đơn giản vì đây chỉ
là một câu chuyện thời sự khác về Việt Nam,
và đó là một phần công việc của chúng tôi; trình
bày tất cả các tin tức một cách cân bằng, không
cần biết là về vấn đề gì. Chúng tôi không và
sẽ không bao giờ là một tổ chức chỉ đưa
ra những bài báo với "tin tức tốt
đẹp", rồi quét vào xó tất cả những tin
tức khác, giả vờ là những tin tức đó không
hề có.
Thất bại trên khía cạnh
đó, áp lực chính thức (của nhà nước
Việt Nam) từ đó quay toàn bộ sang việc tập
trung vào cái gọi là "trang web bất hợp pháp" và
sự cù nhầy của Bộ văn hóa buộc công ty chúng
tôi phải xin một giấy phép cho trang web trên mạng. Bây
giờ thì điều đó có vẻ đã khá lộ
liễu, và thật vậy, công ty chúng tôi đã làm
đơn xin giấy phép trong vòng 2 năm qua, nhưng đã
bị từ chối và mới đây lại bị thêm
một lần nữa.
Nhưng đây chính là vấn đề mâu
thuẫn: công ty chúng tôi không thể đi qua đường
lối chính thức để xin giấy phép cho trang web vì
tất cả hồ sơ của công ty đã bị công an
PA25 tịch thu cách đây 10 tuần lễ, và họ nhất
định từ chối việc hoàn trả hồ sơ
lại cho chúng tôi với lý do "vụ việc đang
được xử lý". Một nhà nước khó
hiểu, chuyên bóp méo xuyên tạc như vậy chỉ có
thể có trong những trang sách của cuốn tiểu
thuyết 1984 của George Orwell.
Vậy thì vụ tấn công chính
trị dơ bẩn, hay tấn công kinh doanh dơ bẩn
này là để xoá sổ Intellasia? Hoặc ai đó có
thể nói rằng sự kiện này giống như một
hình thức để quốc hữu hóa tài sản của
người nước ngoài, nhưng trong trường
hợp điển hình này, đây không phải một
vụ tịch biên tài sản của một công ty ngoại
quốc mà người viết chợt nhớ lại
như trường hợp của các quốc gia Nam Mỹ
cách đây vài thập niên, nhưng việc xóa bỏ hoàn tòan
sự nghiệp của một người nước
ngoài, được tạo dựng qua nhiều năm,
bằng cái luật pháp "thộp cổ đối
tượng" làm rối rắm như mớ bòng bong
để tạo điều kiện cho các đối tác
quốc doanh chiếm đoạt cái vị trí trên thị
trường của người này, hoặc cái mà
được thấy rõ ràng, có thể lại là một
công ty tư nhân nhảy vào tranh giành dưới "ô
dù" bảo vệ của một đối tác nhà
nước. Hành động để loại bỏ
một đối thủ theo kiểu này đã xảy ra
rất nhiều lần trong quá khứ, như chúng ta đã
thấy trong các bản tin được tường
thuật hàng ngày.
Ðây có lẽ là một cảnh báo
cho bất cứ một tổ chức nước ngoài nào
tại Việt Nam. Ngay cả việc sau một
chục năm làm ăn ở Việt Nam để tạo
dựng lên một doanh nghiệp cho gia đình, thì "cái
gậy lớn" có thể đập xuống bất
cứ lúc nào. Ðại khái giống như việc chúng ta nghe
thấy một kẻ bạc phước nào đó bị
tai nạn lưu thông trên xa lộ, có người sẽ nói
"thật tội nghiệp", nhưng đồng
thời lại tin chắc rằng tai nạn này sẽ không
bao giờ xảy đến cho họ. Nhưng dĩ nhiên
là sự xui xẻo có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Luật pháp cổ hũ và sự hung hăng
đâm lén sau lưng không phải là lối để
giải quyết những tranh chấp trong một xã
hội với nền pháp luật văn minh. Nhưng ở
Việt Nam, không có việc được cai trị
dưới pháp luật, mà chỉ có việc bị cai
trị bằng luật pháp - cây gậy lớn
được đưa vào nơi mà tiến trình đúng
đắn của pháp luật không được áp
dụng, và công an luôn nghĩ rằng họ có thể ra tay
bất cứ lúc nào, hành xử trên cả luật pháp
của Việt Nam và coi thường pháp luật của
những quốc gia khác.
Những điều trên đây không có ngụ ý
để phê bình trả đũa lại công an, và dĩ
nhiên là cả nhà nước cũng như nhân dân
Việt Nam. Nó chỉ có ý đưa ra một cách chi
tiết những sự việc đã xảy ra và cái
lối mà hệ thống làm việc tại
Việt Nam có thể - và rất thường xuyên -
làm xập bẫy những kẻ không đề phòng
bất cứ lúc nào.
Peter J Leech
Chủ nhân và nhà xuất bản
Intellasia.com
Intellasia.net
=END=
4- Tham Khảo
- Minh định với ông Nguyễn Minh Triết
về điều 4 Hiến pháp trên quan điểm pháp lý và
chính trị, văn hóa và đạo lý
Ls Nguyễn Hữu Thống
Tháng 8 vừa qua, ông Nguyễn Minh Triết,
Chủ Tịch Nước, đã nói chuyện về
Ðiều 4 Hiến Pháp với các cán bộ lãnh đạo và
công nhân viên chức Tổng Cục Chính Trị Bộ
Quốc Phòng.
Trong dịp này ông nhấn mạnh đến
nhiệm vụ của Quân Ðội Nhân Dân là xây dựng và
bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam Xã Hội Chủ
Nghĩa. Mà muốn tiến lên Chủ Nghĩa Xã Hội
phải xây dựng và bảo vệ Ðảng Cộng
Sản. Ðó là lập trường bất di bất dịch:
"Dù ai nói ngả nói nghiêng, dù ai có muốn bỏ Ðiều
4 Hiến Pháp gì đó thì không có chuyện đó. Bỏ cái
đó đồng nghĩa với chúng ta tuyên bố chúng ta
tự sát".
Như vậy, đối với các cán bộ
đảng viên, khẩu hiệu tuyên truyền chiến
lược của Ðảng Cộng Sản là: "Bỏ
Ðiều 4 Hiến Pháp là bỏ Ðảng, là tự sát".
Trên quan điểm pháp lý và chính trị, văn hóa
và đạo lý, chúng ta minh định với ông Nguyễn
Minh Triết về Ðiều 4 Hiến Pháp.
Ðiều 4 viết: "Ðảng Cộng Sản
Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công
nhân... đại biểu trung thành của cả dân tộc,
theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà Nước và
xã hội". Ðiều này chép lại Ðiều 6 Hiến Pháp
Liên Bang Sô Viết dành độc quyền lãnh đạo cho
Ðảng Cộng Sản Liên Xô.
Sau cuộc Cách Mạng Dân Chủ tại Ðông Âu
năm 1989 và tại Liên Xô năm 1991, tất cả các
nước cộng sản cũ tại miền thế
giới này đã đồng loạt xóa bỏ 3
điều trong Hiến Pháp:
Chủ Nghĩa Xã Hội Mác-Lênin và chế
độ Chuyên Chính Vô Sản
Sự Ðộc Quyền Tư Tưởng và
Ðộc Quyền Ý Thức Hệ
Chính sách Ðộc Ðảng và Ðộc Quyền Lãnh
Ðạo của đảng cầm quyền.
Ngày nay, mặc dầu không còn "Ðiều 6
Hiến Pháp" tại Cộng Hòa Nga cũng như tại
các quốc gia đã giã từ chế độ cộng
sản, những thành phần giác ngộ và tiến bộ
trong các đảng cộng sản cũ đã thay đổi
chủ trương và tư duy để kết tập
trong các tổ chức chính trị theo Chủ Nghĩa Dân
Chủ Tự Do hay Dân Chủ Xã Hội (Democratic Socialism).
Va,ụ thay vì "tự sát", họ vẫn có vai trò và
chỗ đứng trong cuộc đấu tranh đại
nghị đòi thực thi tự do nhân quyền cho
người dân và phát triển kinh tế cho đất
nước. Mấy năm trước đây, một
vị lãnh đạo Ðảng Cộng Sản Ba Lan cũ
đã được quốc dân bầu vào chức vụ
thủ tướng. Và đương kim Thủ
Tướng Cộng Hòa Liên Bang Ðức cũng là một
nữ chính khách đã từng sinh hoạt trong chế độ
Cộng Hòa Dân Chủ Ðức (Ðông Ðức).
Ðó là những dẫn chứng điển hình
để phản bác lời tiên đoán có tính hù dọa
của ông Nguyễn Minh Triết trước tập
thể Quân Ðội Nhân Dân bằng khẩu hiệu
"Ðộc Ðảng hay là Chết!".
Cũng như tại các quốc gia văn minh trên
thế giới, hai mục tiêu chiến lược của
Việt Nam ngày nay là xây dựng dân chủ và phát triển
kinh tế xã hội. Công cuộc này đòi hỏi phải
có tự do nhân quyền trong một nhà nước Dân
Chủ Pháp Trị.
Ðiều nghịch lý là hiện nay hệ thống
luật pháp thực dụng để phục vụ
quyền lợi của Ðảng CS không có tính Chính Thống
Pháp Lý. Vì nó đi trái Luật Quốc Tế Nhân Quyền do
Liên Hiệp Quốc ban hành để áp dụng cho tất
cả mọi người.
Vì nhu cầu tuyên truyền đối ngoại,
Hiến Pháp 1992 hiện hành đã ghi chép hầu hết
những nhân quyền và những quyền tự do cơ
bản của người dân, từ tự do dân sự,
tự do tinh thần, tự do chính trị đến
những quyền kinh tế xã hội và văn hóa giáo
dục. (Còn sự tước đoạt nhân quyền
bằng các đạo luật áp dụng vi hiến do
quốc hội ban hành, cũng như bằng sự
giải thích luật pháp xuyên tạc của tòa án, lại là
vấn đề khác).
Tuy nhiên, có hai ngoại lệ phát sinh từ
thuyết Chuyên Chính Vô Sản là các hệ thống
độc quyền tư tưởng và độc
quyền lãnh đạo của Ðảng Cộng Sản. Hai
độc quyền này được định chế
hóa bởi Ðiều 4 Hiến Pháp. Hậu quả là Ðiều 4
có tác dụng phủ nhận toàn diện và phá vỡ
tất cả những định chế hiến pháp dân
chủ liên quan đến 26 nhân quyền và những
quyền tự do cơ bản của người dân mà
nhân loại văn minh đã khổ công xây dựng từ
hàng trăm năm nay.
Trên bình diện chính trị và văn hóa, đó là quyền
dân tộc tự quyết, quyền tự do tư
tưởng, tự do văn hóa, tự do phát biểu,
tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do xuất
bản, quyền thông tin, quyền bình đẳng
trước pháp luật, quyền bình đẳng cơ
hội tham gia chính quyền, quyền tự do tuyển
cử, quyền tự do lập đảng, quyền
mít-tinh biểu tình, quyền khiếu nại khiếu
tố, và đặc biệt là quyền đối kháng là
một quyền liên lập và liên quan với quyền tự
do phát biểu, tự do hội họp, tự do lập
đảng, tự do tuyển cử và quyền tham gia chính
quyền. Những quyền này được quy định
trong Luật Quốc Tế Nhân Quyền Liên Hiệp
Quốc mà các quốc gia hội viên kết ước
đã minh thị cam kết sẽ tôn trọng và thực
thi.
Về mặt pháp lý và chính trị, văn hóa và
đạo lý, Ðiều 4 Hiến Pháp đi trái Luật
Quốc Tế Nhân Quyền, phản lại Hiến Pháp và
đi trái Lòng Dân.
Ðiều 4 Hiến Pháp đi trái
Luật Quốc Tế Nhân Quyền
Năm 1977, Việt Nam gia
nhập Liên Hiệp Quốc và có nghĩa
vụ pháp lý phải tôn trọng, bảo vệ và thực
thi những điều khoản nhân quyền trong Hiến
Chương Liên Hiệp Quốc (1945), Tuyên Ngôn Quốc Tế
Nhân Quyền (1948) và Phụ Ðính Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân
Quyền (1998).
Năm 1982 Việt Nam tham gia Công
Ước Quốc Tế về Những Quyền Dân
Sự và Chính Trị (Công Ước Dân Sự Chính
Trị). Về mặt quốc tế công pháp, Công
Ước này đã được chính phủ ký kết và
quốc hội phê chuẩn, nên có giá trị là một
hiệp ước quốc tế, và có hiệu lực pháp
lý cao hơn luật pháp và hiến pháp quốc gia.
Trên bình diện pháp lý và
đạo lý, muốn có chính thống phải đặt
vấn đề Chính Danh. Người xưa nói: "Danh
có chính thì ngôn mới thuận, ngôn có thuận thì việc
mới thành". Quan niệm Chính Danh do các nhà hiền
triết Ðông Phương đề xướng từ 2500
năm để phân biệt trắng đen, phải trái,
chính tà, thiện ác. Ngày nay, hơn bao giờ hết, nó có
tính thời sự. Do chính sách thông tin một chiều,
với tuyên truyền dối trá, che giấu sự thật,
không trọng lẽ phải, văn hóa và đạo lý.
Về mặt chính trị xã
hội, với quan niệm Chính Danh, chúng ta phân biệt Dân
Chủ và Chuyên Chế, Dân Chủ Pháp Trị và Ðộc Tài
Ðảng Trị, Công Lý và Bất Công, Nhân Quyền và Bạo
Quyền. Mà muốn có dân chủ pháp trị phải có xã
hội đa nguyên và chính trị đa đảng. Trong
chế độ độc tài đảng trị chúng ta
gặp trở ngại do cái gọi là chuyên chính vô sản,
chuyên chính tư tưởng, pháp quyền XHCN và dân chủ
tập trung.
Dân chủ tập trung là gì? Theo
Hồ Chí Minh, "dân có quyền có tài sản: đó là dân
chủ. Nhưng vì dân không biết giữ nên phải giao
cho Chủ Tịch Ðảng giữ dùm. Chủ Tịch
bỏ vào rương, khóa lại và cất chìa khóa vào túi:
đó là tập trung". Tài sản ở đây có
thể là ruộng đất mà Ðảng CS đã công hữu
hóa, mà cũng là quyền lợi của công dân, như
những quyền dân sự chính trị, kinh tế xã
hội và văn hóa giáo dục. Những quyền này
được Luật Quốc Tế Nhân Quyền
đề xướng và bảo vệ, nhưng đã
bị Ðảng cất giữ và khóa kín không cho Dân sử
dụng.
Từ thập niên 1910 Nguyễn
Tất Thành có chấp phụ là Phan Chu Trinh, sư phụ là
Phan Văn Trường, có các chiến hữu như
Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh và các
đồng chí như Leon Blum, Maurice Moutet trong Ðảng Xã Hội
Pháp. Nguyễn Ái Quốc không phải là tên riêng của ông,
mà là bút hiệu chung của "Ngũ Long" Phan Chu Trinh,
Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền,
Nguyễn An Ninh và Nguyễn Tất Thành. Dưới bút
hiệu này, họ đã viết những bài đòi
quyền Dân Tộc Tự Quyết trên các báo Xã Hội
như Humanité (Nhân Loại) hay Le Populaire (Dân Chúng). Nhưng
từ các thập niên 1920 và 1930, khi quy phục Stalin và Mao
Trạch Ðông trong các Ðảng Cộng Sản, gần mực
thì đen, Hồ Chí Minh đã trở thành vô minh quên hết
tình tự dân tộc, chỉ nghĩ đến việc
thiết lập dân chủ tập trung và chuyên chính vô
sản.
Nhân quyền và những quyền
tự do cơ bản được đề
xướng và khai triển trong Phụ Ðính Tuyên Ngôn Quốc
Tế Nhân Quyền do Liên Hiệp Quốc ban hành năm 1998
nhân dịp kỷ niệm 50 năm Tuyên Ngôn Quốc Tế
Nhân Quyền (1948).
Phần Mở Ðầu Tuyên Ngôn
Phụ Ðính viết:
"Cần nhắc lại
rằng nhân quyền và những quyền tự do cơ
bản có tính toàn cầu, bất khả phân,
liên lập và liên quan với nhau, nên phải
được đề xướng và thực thi công
bằng và đồng đều, sự thực thi
quyền này không gây trở ngại cho sự thực
hiện quyền kia.
"Nhấn mạnh rằng Quốc
Gia có trách nhiệm tiên khởi và có nghĩa vụ
phải đề xướng và bảo vệ nhân
quyền và những quyền tự do cơ bản".
Những quyền này
được ghi trong Luật Quốc Tế Nhân Quyền
như Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, Tuyên Ngôn
Quốc Tế Nhân Quyền và Tuyên Ngôn Phụ Ðính, cũng
như trong Công Ước Quốc Tế về Những
Quyền Dân Sự và Chính Trị, và Công Ước Quốc
Tế về Những Quyền Kinh Tế Xã Hội và
Văn Hóa. Căn cứ vào Luật Quốc Tế Nhân
Quyền, các quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc,
đặc biệt là các quốc gia đã ký kết tham gia
Công Ước Dân Sự Chính Trị, chỉ có thể
chấp nhận một loại nhân quyền duy nhất áp
dụng trên toàn cầu cho tất cả mọi
người.
Chiếu Ðiều 2 Công
Ước Dân Sự Chính Trị, các quốc gia hội viên
Liên Hiệp Quốc tham gia Công Ước đã cam
kết tôn trọng và bảo đảm thực
thi những quyền tự do cơ bản
được thừa nhận cho tất cả mọi
người sống trong lãnh thổ quốc gia. Trong
trường hợp những quyền tự do cơ
bản ghi trong Công Ước chưa được quy
định thành văn trong hiến pháp và luật pháp
quốc gia (như quyền tự do tư
tưởng), thì các quốc gia kết ước
(như Việt Nam) có nghĩa vụ phải ban hành các
đạo luật bổ túc hay tu chính hiến pháp cho phù
hợp với tinh thần và bản văn các điều
khoản nhân quyền của Công Ước để các
quyền này được thực sự thi hành. Trong
trường hợp quốc gia kết ước không quy
định những quyền này trong hiến pháp hay
luật pháp quốc gia, thì những điều khoản
về nhân quyền và về những quyền tự do
cơ bản của người dân ghi trong Công Ước
Dân Sự Chính Trị (như quyền tự do tư
tưởng) vẫn có hiệu lực chấp hành và
phải được áp dụng trước các tòa án
quốc gia và quốc tế.
Quyền tự do tư
tưởng được thừa nhận trong Tuyên Ngôn
Quốc Tế Nhân Quyền (Ðiều 18) và trong Công
Ước Dân Sự Chính Trị (Ðiều 18). Mặc
dầu vậy, Ðiều 4 Hiến Pháp đã dành cho Ðảng
CS độc quyền tư tưởng buộc toàn dân
phải theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh (nếu quả thật có loại tư
tưởng này). Như vậy Ðiều 4 Hiến Pháp đi
trái với Luật Quốc Tế Nhân Quyền, đặc
biệt là Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Công
Ước Dân Sự Chính Trị.
Về mặt quốc tế công
pháp, các Công Ước Quốc Tế như Hiến
Chương Liên Hiệp Quốc và Công Ước Dân Sự
Chính Trị là những hiệp ước quốc tế
đã được chính phủ ký kết và quốc
hội phê chuẩn, nên có hiệu lực pháp lý cao hơn
luật pháp và hiến pháp quốc gia.
Năm 1945, 50 Quốc Gia Ðồng
Minh họp Hội Nghị San Francisco để thành lập
Liên Hiệp Quốc và công bố Hiến Chương Liên
Hiệp Quốc nhằm bảo vệ hòa bình cho các quốc
gia và đề xướng nhân quyền cho tất cả
mọi người.
Chiếu Ðiều 56 Hiến
Chương, các quốc gia hội viên cam kết cộng
tác với Liên Hiệp Quốc để thực hiện
mục tiêu bảo vệ nhân quyền trên toàn cầu. Qua
Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, nhân quyền không
còn là một vấn đề quốc nội mà đã
được quốc tế hóa. Do đó các
quốc gia hội viên Liên Hiệp Quốc không thể
chủ trương rằng việc họ thủ tiêu hay
đàn áp các công dân của họ chỉ là vấn
đề nội bộ.
Chiếu nguyên tắc Dân Tộc
Tự Quyết, chủ quyền quốc gia thuộc
về toàn dân. Do đó nhân quyền không phải là
quyền của nhà nước, mà là quyền của
người dân mà nhà nước có nghĩa vụ phải
tôn trọng. Vi phạm nhân quyền và những quyền
tự do cơ bản của người dân, nhà
nước có thể bị khiếu nại và phải
trả lời trước Hội Ðồng Nhân Quyền Liên
Hiệp Quốc.
Năm 1993, Ðại Hội Nhân
Quyền Vienna ra Tuyên Cáo nhắc nhở các quốc gia đã
ký kết tham gia các Công Ước Quốc Tế Nhân
Quyền, như Công Ước Dân Sự Chính Trị,
phải tôn trọng chữ ký, lời cam kết và danh
dự của mình: "Các quốc gia vi phạm Luật
Quốc Tế Nhân Quyền phải chịu trách nhiệm
quốc tế về những hành động vi phạm
của họ".
Do đó trên bậc thang giá
trị, Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và Công
Ước Dân Sự Chính Trị đứng trên và
đứng trước luật pháp và hiến pháp quốc
gia. Trong trường hợp có sự mâu
thuẫn giữa luật pháp quốc gia và Công
Ước Quốc Tế thì tòa án phải tham chiếu và áp
dụng những điều khoản nhân quyền của
Công Ước Quốc Tế.
Tại Việt Nam ngày nay, mâu
thuẫn lớn nhất giữa luật pháp quốc gia và
Công Ước Quốc Tế phát sinh từ Ðiều 4
Hiến Pháp.
Khi quy định sự
độc quyền tư tưởng và độc
quyền lãnh đạo của Ðảng Cộng Sản,
Ðiều 4 Hiến Pháp đi trái với quyền Dân Tộc
Tự Quyết là quyền được ghi trong Hiến
Chương Liên Hiệp Quốc (các Ðiều 1 và 55), Phụ
Ðính Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (Phần Mở
Ðầu), Công Ước Dân Sự Chính Trị và Công
Ước Kinh Tế Xã Hội Văn Hóa (các Ðiều 1).
Về mặt quốc nội, Dân
Tộc Tự Quyết là quyền của người dân
được tự do lựa chọn chế độ
hay chính thể của Quốc Gia (như quân chủ lập
hiến, cộng hòa dân chủ, dân chủ xã hội hay xã
hội chủ nghĩa), và được quyền tự
do tuyển cử để trực tiếp tham gia chính
quyền, hay bầu lên các đại biểu của mình
trong chính quyền để thực thi chế độ
đó.
Ngoài quyền Dân Tộc Tự
Quyết, Ðiều 4 Hiến Pháp còn đi trái Công Ước
Dân Sự Chính Trị nơi Ðiều 18 (quyền tự do
tư tưởng), Ðiều 19 (tự do phát biểu), các
Ðiều 21, 22 (tự do hội họp, lập hội và
lập đảng), Ðiều 25 (quyền bình đẳng
cơ hội tham gia chính quyền) v...v...
Cũng như Ðiều 2 Hiến
Pháp 1992 hiện hành, Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền
khẳng định rằng chủ quyền quốc gia
thuộc về Nhân Dân chứ không thuộc về Nhà
Nước: "Ý nguyện của người dân là
căn bản của quyền lực nhà
nước" (Ðiều 21).
Hơn nữa, chiếu Ðiều 5
Công Ước Dân Sự Chính Trị, Tòa Án (Tối Cao Pháp
Viện) không được giải thích xuyên
tạc luật pháp quốc gia hay công ước
quốc tế để cho phép chính phủ hay tòa án làm
những hành vi, hay tuyên những bản án, nhằm phủ
nhận hay tước đoạt của người dân
những quyền tự do cơ bản đã
được luật pháp quốc gia và công ước
quốc tế thừa nhận. Ðặc biệt là quyền
đối kháng bạo quyền.
Phần Mở Ðầu Tuyên Ngôn
Quốc Tế Nhân Quyền mặc nhiên thừa nhận
quyền đối kháng bạo quyền: "Ðiều
cốt yếu là nhân quyền phải được
một chế độ dân chủ pháp trị bảo
vệ để con người khỏi bị dồn vào
thế cùng phải đứng lên đối kháng chống
áp bức và bạo quyền".
Theo Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân
Quyền Pháp (1789): "sự phủ nhận, khinh miệt
hay lãng quên nhân quyền là nguyên nhân duy nhất đem lại
đại bất hạnh cho người dân và sa
đọa cho chính quyền. Mục đích của mọi
tập hợp chính trị trong xã hội là để
bảo vệ những quyền tự nhiên và bất
khả chuyển nhượng của con người,
như quyền tự do, quyền tư hữu, quyền an
ninh và quyền đối kháng bạo quyền."
Theo Tuyên Ngôn Ðộc Lập Hoa
Kỳ (1776): "mọi người sinh ra bình đẳng,
đó là một chân lý hiển nhiên. Nhân quyền là những
quyền bẩm sinh bất khả chuyển nhượng
do Tạo Hóa ban cho con người, như quyền sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Nếu chính quyền ngoan cố tước đoạt
tự do nhân quyền để siết chặt guồng
máy thống trị bạo tàn bằng chế độ
chuyên chính tuyệt đối, người dân có quyền và
có nghĩa vụ đứng lên đối kháng lật
đổ chính quyền để giành lại những bảo
đảm cho cuộc sống tương lai. Khi chính
quyền biểu lộ tính chuyên chế của một
bạo quyền, nó không còn xứng đáng lãnh đạo
một dân tộc tự do."
Vì con người không phải là á
thánh nên xã hội cần phải có chính quyền. Và vì nhà
cầm quyền cũng không phải là á thánh nên luật pháp
phải dành cho người dân quyền kiểm soát,
đối kháng, chế tài và thay thế chính quyền.
Nếu không có tự do tư tưởng, tự do thông tin,
tự do phát biểu, phê bình và chỉ trích thì không thể có
dân chủ. Nếu người dân không được
tự do lập đảng, tự do bầu cử và ứng
cử để tham gia chính quyền và thay thế chính
quyền, thì đảng cầm quyền sẽ hủ hóa
thành độc tài, tham nhũng, bất công và bất
lực. Ðó là một quy luật về Chính Thống Dân
Chủ.
Vì đi trái Luật Quốc
Tế Nhân Quyền, Ðiều 4 Hiến Pháp phải bị
hủy bỏ.
Ðiều 4 Hiến Pháp phản
lại Hiến Pháp
Theo chính sách dân chủ hình
thức, Nhà Nước CHXHCNVN đã ghi trong Hiến Pháp
hầu hết các nhân quyền và các quyền tự do cơ
bản của người dân, như quyền tự do tôn
giáo (Ðiều 70), quyền bình đẳng trước pháp
luật (Ðiều 52), quyền tham gia chính quyền (Ðiều
53), quyền tự do bầu cử và ứng cử
(Ðiều 54), quyền tự do đi lại và cư trú
(Ðiều 68), quyền tự do phát biểu, tự do ngôn
luận, tự do báo chí, quyền thông tin, quyền tự do
hội họp, tự do lập hội, quyền biểu
tình (Ðiều 69), quyền được suy đoán là vô
tội (Ðiều 72), quyền khiếu nại, khiếu
kiện các cơ quan chính phủ khi có sự lạm
quyền phi pháp (Ðiều 74) v...v...
Khi quy định sự
độc quyền tư tưởng và độc
quyền lãnh đạo của Ðảng CS, Ðiều 4
Hiến Pháp đã phản lại Hiến Pháp vì đi trái với
các điều khoản hiến pháp cơ bản như các
Ðiều 2, 3, 6, 8, 11, 50, 52, 53, 54, 68, 69.
Thật vậy:
Theo Ðiều 2 Hiến
Pháp "Nhà Nước thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân", chứ không thuộc về
Ðảng CS. Ðiều 21 Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền
cũng quy định như vậy: "Ý nguyện
của người dân là căn bản của
quyền lực nhà nước" (The will of the people shall
be the basis of the authority of government).
Hiện nay số đảng viên
CS chỉ chiếm từ 2% đến 3% dân số
Việt Nam. Và khối đông đảo trên 97% nhân dân không
được quyền tham gia vào guồng máy lãnh
đạo quốc gia. Ðó là một điều bất công,
phi lý và phi pháp.
Theo Ðiều 3 Hiến
Pháp: "Nhà Nước bảo đảm quyền
làm chủ về mọi mặt của nhân dân,
và nghiêm trị mọi hành động xâm phạm những
quyền và lợi ích của nhân dân" (dầu rằng
kẻ xâm phạm chính lại là Ðảng CS).
Theo Ðiều 6 Hiến
Pháp: "nhân dân sử dụng quyền lực Nhà
Nước thông qua Quốc Hội là cơ quan
đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân
dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước
nhân dân". Do đó Quốc Hội không thể là sản phẩm
và công cụ của Ðảng CS. Trên thực tế, Ðảng
CS đã dựng lên các quốc hội tiền chế trong
chính sách "Ðảng cử dân bầu". Quốc Hội
đã chép Ðiều 4 Hiến Pháp nguyên văn từ Ðiều 6
Hiến Pháp Liên Xô để dành độc quyền lãnh
đạo cho Ðảng CS. Ðó không phải là ý chí và nguyện
vọng của nhân dân Việt Nam.
Hơn nữa quốc hội
của nhân dân phải sinh hoạt theo nguyên tắc dân
chủ pháp trị, chứ không theo nguyên tắc "dân
chủ tập trung" phản dân chủ.
Theo Ðiều 8 Hiến
Pháp "các cơ quan nhà nước, cán bộ viên chức
nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận
tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt
chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu
sự giám sát của nhân dân... [không được] quan
liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng". Ðây
chỉ là những mỹ từ để du mị nhân
dân, nói vậy mà không phải vậy.
Theo Ðiều 11 Hiến
Pháp "công dân thực hiện quyền làm
chủ của mình bằng cách tham gia công việc
của Nhà Nước". Muốn thế
phải thiết lập chế độ dân chủ pháp
trị để Dân được quyền làm chủ Nhà
Nước, và bãi bỏ chế độ độc tài
đảng trị, bãi bỏ Ðiều 4 Hiến Pháp theo
đó Ðảng độc quyền lãnh đạo Nhà
Nước và xã hội.
Theo Ðiều 50 Hiến
Pháp: "ở nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính
trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội
được tôn trọng, thể hiện ở các
quyền công dân đã được quy định trong
Hiến Pháp và luật". Vậy mà trên thực tế
tất cả 26 nhân quyền và những quyền tự do
cơ bản của người dân đã bị Ðảng CS
tước đoạt bằng Ðiều 4 Hiến Pháp,
cũng như bằng các đạo luật áp dụng vi
hiến của quốc hội và sự giải thích
luật pháp xuyên tạc của tòa án.
Theo Ðiều 52 Hiến
Pháp: "mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật." Do đó Nhà Nước
không được phân biệt kỳ thị về
lập trường và chính kiến giữa các đảng
đối lập và đảng cầm quyền, cũng
như không được coi những người ngoài
Ðảng là công dân hạng nhì, không có quyền tự do
lập đảng, tự do tuyển cử và quyền tham
gia chính quyền.
Theo Ðiều 53 Hiến
Pháp "công dân có quyền tham gia quản lý Nhà
Nước" bằng cách hành sử quyền
tự do lập đảng, tự do tuyển cử,
quyền bình đẳng cơ hội tham gia chính quyền
và quyền kiến nghị khiếu nại và khiếu
kiện là những hình thức của quyền Dân Tộc
Tự Quyết. Trong khi đó Ðiều 4 dành cho Ðảng CS
quyền độc chiếm bộ máy Nhà Nước.
Theo Ðiều 54 Hiến
Pháp: "công dân được quyền bầu
cử và ứng cử vào Quốc Hội". Do đó
Ðảng CS không được tước đoạt
quyền tự do tuyển cử của công dân do chính sách
"Ðảng cử dân bầu".
Theo Ðiều 68 Hiến
Pháp: "công dân có quyền tự do đi lại và tự
do cư trú ở trong nước, có quyền ra nước
ngoài và từ nước ngoài về nước".
Quyền này được mệnh danh là Quyền An Cư
dự liệu nơi Ðiều 12 Công Ước Dân Sự
Chính Trị. Tháng 8-1997, Ủy ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc
công bố Nghị Quyết tố cáo Bắc Triều Tiên vi
phạm quyền tự do cư trú và đi lại,
quyền tự do xuất ngoại và hồi hương
của người dân. Phẫn chí, Bình Nhưỡng rút ra
khỏi Công Ước Dân Sự Chính Trị, đồng
thời rút ra khỏi cộng đồng nhân loại
văn minh. Tại Việt Nam, chính sách quản thúc tại
gia đã vi phạm thô bạo Quyền An Cư của
người dân.
Theo Ðiều 69 Hiến
Pháp: "công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, quyền thông tin, quyền biểu tình, tự do
hội họp và lập hội", lập hội dân
sự như công đoàn độc lập và hội chính
trị như các chính đảng đối lập.
Vì Nhà Nước thuộc về
nhân dân, nên chỉ nhân dân mới có tư cách và thẩm
quyền lãnh đạo và quản lý Nhà Nước,
Ðảng CS không thể tự ban cho mình quyền này bằng
cách vận dụng các thủ thuật trí trá để
bầu lên một quốc hội tiền chế, rồi ra
chỉ thị cho cơ quan này ghi Ðiều 4 vào Hiến Pháp.
Tựu chung, khi dành độc
quyền lãnh đạo Nhà Nước cho Ðảng CS,
Ðiều 4 đã tước đoạt của nhân dân
tất cả 26 Nhân Quyền và những quyền tự do
cơ bản, như tự do thân thể, tự do tinh
thần, tự do chính trị kể cả những
quyền dân sự, kinh tế xã hội và văn hóa giáo
dục.
Vì những lý do nêu trên, Ðiều 4
phải bị hủy bỏ. Nó vi phạm thô bạo
Luật Quốc Tế Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc,
đồng thời vi phạm thô bạo Hiến Pháp nơi
các Ðiều 2, 3, 6, 8, 11, 50, 52, 53, 54, 68 và 69.
Chiếu nguyên tắc Chính
Thống Pháp Lý áp dụng trong công tác thảo hiến, các nhà
lập hiến thường quy định trong
Chương I những cương lĩnh hiến pháp cơ
bản được coi là chủ yếu và có tầm quan
trọng theo thứ tự ưu tiên.
Ðiều 1 Hiến Pháp
Quan trọng nhất là Ðiều 1
Hiến Pháp nói về Nước.
Ðiều 1 Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 1967 viết:
"Việt Nam là một Nước Cộng Hòa,
độc lập, thống nhất, lãnh thổ bất
khả phân. Chủ quyền quốc gia thuộc về toàn
dân".
Ðiều 1 Hiến Pháp Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa 1946 viết: "Nước Việt
Nam là một nước Dân Chủ Cộng Hòa, tất
cả quyền bính trong nước là của toàn thể
nhân dân Việt Nam".
Ðiều 1 Hiến Pháp Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam 1992 xác nhận: "Nước Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam là một nước độc
lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ".
Như vậy đối
tượng của Ðiều 1 Hiến Pháp là xác
định chính thể hay chế độ chính trị
của Nước, và quyền của Dân được
làm chủ quốc gia, làm chủ nhà nước chiếu
Nguyên Tắc Dân Tộc Tự Quyết.
Sửa Ðổi Ðiều I Hiến Pháp
Chiếu Ðiều 107 Hiến Pháp VNCH 1967: "không
thể hủy bỏ hoặc tu chính Ðiều 1 và
điều này của Hiến Pháp".
Chiếu Ðiều 70 Hiến Pháp VNDCCH 1946:
"sự sửa đổi Hiến Pháp phải theo cách
thức sau đây:
Do 2/3 tổng số nghị viên (đại
biểu) yêu cầu.
Nghị Viện (Quốc Hội) bầu ra
một ban dự thảo những điều thay
đổi
Những điều thay đổi đã
được Nghị Viện ưng chuẩn thì phải
đưa ra toàn dân phúc quyết" [trong một
cuộc Trưng Cầu Dân Ý].
Ðiều đáng lưu ý là, với Ðiều 1
Hiến Pháp CHXHCNVN 1992 hiện hành, Quốc Hội
đã sửa đổi chính thể hay chế
độ của Nước Việt Nam, từ Dân
Chủ Cộng Hòa (theo Hiến Pháp 1946) thành Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa. Sự thay đổi này không
được quốc dân phê chuẩn bằng một phúc
quyết trong một cuộc Trưng Cầu Dân Ý.
Chiếu Ðiều 70 Hiến Pháp VNDCCH 1946, sự
sửa đổi Ðiều 1 Hiến Pháp 1946 hiển nhiên vi
hiến. Vì nó vi phạm hình thức hay thủ tục
sửa đổi Hiến Pháp. Theo một nguyên tắc
về Chính Thống Pháp Lý "Hình Thức hay Thủ
Tục là chị em song sinh của Tự Do" (The Form
or Procedure is a twin-sister of the Liberty). Do đó nó không có giá trị
và hiệu lực pháp lý.
Cũng nên nhắc lại rằng Hiến Pháp VNCH
1967 không cho phép sửa đổi Ðiều 1 Hiến Pháp nói
về chính thể hay chế độ Cộng Hòa của
Việt Nam.
Nếu Ðiều 1 Hiến Pháp 1992 hiện hành
đã vi phạm Ðiều 70 Hiến Pháp 1946 nguyên
thủy, thì cái đuôi của nó là Ðiều 4 cũng vô
giá trị và vô hiệu lực.
Sửa Ðổi Toàn Bộ hay Hủy Bỏ
Hiến Pháp 1946
Ngoài ra, Ðiều 70 Hiến Pháp VNDCCH 1946 chỉ
cho phép các Quốc Hội Lập Pháp kế tiếp tu
chính từng điều khoản hiến pháp mà không
được sửa đổi toàn bộ hay hủy
bỏ Hiến Pháp. Các nhà lập hiến quan niệm
rằng chế độ Cộng Hòa Dân Chủ phù hợp
với nguyện vọng và quyền lợi của Nhân
Dân. Do đó các Quốc Hội kế tiếp không
được quyền sửa đổi toàn thể 70
Ðiều trong Hiến Pháp, nghĩa là không được
hủy bỏ toàn bộ Hiến Pháp 1946 nếu không có
sự phê chuẩn hay phúc quyết của Nhân Dân.
Trên thực tế, từ nửa thế kỷ
nay, thủ tục sửa đổi hiến pháp quy
định bởi Quốc Hội Lập Hiến 1946
đã không được các quốc hội lập pháp
kế tiếp tuân hành. Do đó muốn "sống theo pháp
luật", quốc dân có quyền khẳng định
rằng, những Hiến Pháp kế tiếp, từ
Hiến Pháp 1959 đến Hiến Pháp 1980 và Hiến Pháp
1992 hiện hành, tất cả đều vô giá trị và vô
hiệu lực. Vì Hiến Pháp 1946 không dự liệu
sự hủy bỏ hay sửa đổi toàn bộ
Hiến Pháp, và đặc biệt là không có sự duyệt
y hay phúc quyết của Quốc Dân truyền hủy bỏ
Hiến Pháp 1946 trong một cuộc Trưng Cầu Dân Ý.
Muốn thượng tôn luật pháp, Nhà
Nước đương quyền phải tổ chức
cuộc Trưng Cầu Dân Ý dưới sự giám sát
của Liên Hiệp Quốc để xem quốc dân có phúc
quyết phê chuẩn việc hủy bỏ toàn bộ
Hiến Pháp 1946 hay không? Nếu Quốc Dân nói "không"
thì Hiến Pháp 1946 phải được phục sinh.
Từ 220 năm nay, Hiến Pháp Hoa Kỳ 1787 chỉ được tu
chính, chứ không bị hủy bỏ.
Ðó là nói về tầm quan trọng của Ðiều
1 Hiến Pháp.
Ðiều 2 Hiến Pháp
Ðiều 2 Hiến Pháp VNCH 1967 công nhận và
bảo đảm những quyền tự do căn bản
của người dân trong tinh thần bình
đẳng và tương trợ, đồng thời nêu ra
những nghĩa vụ của người dân trong việc
phục vụ quốc gia. Những quyền lợi và
nghĩa vụ của công dân được khai triển
trong Chương II gồm 24 điều (từ Ðiều 6
đến Ðiều 29).
Ðiều 2 Hiến Pháp CHXHCNVN 1992 cũng công
nhận dân là chủ nhà nước,
được nắm giữ mọi quyền lực nhà
nước. Và nhà nước là "của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân" (ngôn từ của Tổng Thống Hoa
Kỳ Abraham Lincoln là người đã thực thi chính sách
giải phóng nô lệ hồi giữa Thế Kỷ 19).
Như vậy đối tượng của
Ðiều 2 Hiến Pháp là đề xướng một quy
luật về Chính Thống Dân Chủ theo đó Chủ
Quyền Quốc Gia hay quyền lực Nhà Nước
thuộc về Nhân Dân. Quy luật này được xác
nhận trong Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền Liên
Hiệp Quốc: "Ý nguyện của nhân dân phải
được coi là căn bản của quyền lực
nhà nước" (Ðiều 21).
Ðiều 3 Hiến Pháp
Ðiều 3 Hiến Pháp VNCH 1967 quy định
chế độ Tam Quyền Phân Lập giữa
lập pháp, hành pháp và tư pháp, để phân công phân
quyền, hợp tác đồng thời giám sát lẫn nhau.
Sự phân quyền hiến chế nhằm điều hòa
phối hợp để thực thi chính sách quốc gia
chống độc tài, tham nhũng, bất công, phạm
pháp và lạm quyền, đem lại thịnh vượng
chung, xây dựng Tự Do Dân Chủ và Công Bằng Xã Hội.
Ba quyền hiến chế nói trên tạo nên thế quân bình
chân vạc của Nhà Nước Dân Chủ Pháp Trị.
Ðiều 3 Hiến Pháp CHXHCNVN 1992 cũng quy
định nghĩa vụ của Nhà Nước trong
việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo
vệ lợi ích của nhân dân nhằm xây dựng một
nước giàu mạnh ấm no, tự do hạnh phúc,
với kinh tế phát triển và công bằng xã hội.
Như vậy, khi nói về nhiệm vụ
của Nhà Nước, các Ðiều 2 và 3 của các Hiến
Pháp nói trên xác nhận quyền làm chủ nhà nước
của Nhân
Dân. Tổng
kết lại, 3 điều đầu tiên của Hiến
Pháp VNCH 1967 và Hiến Pháp CHXHCNVN 1992 là 3 điều
khoản hiến chế cơ bản hay 3 Cương
Lĩnh Hiến Pháp để nói về:
1). Nước hay Quốc Gia. (State)
2). Dân hay Nhân Dân (People)
3). Nhà Nước hay Chính Quyền (Government) theo
tầm quan trọng và thứ tự ưu tiên.
- Ðiều 1 nói về Nước hay
Quốc Gia là cương lĩnh hiến pháp quan trọng
số 1 quy định chính thể hay chế độ.
Hiến Pháp VNCH 1967 không cho phép sửa đổi hay hủy
bỏ Ðiều 1.
- Ðiều 1 Khoản 2 Hiến Pháp VNCH 1967 xác
nhận "Chủ quyền Quốc Gia thuộc về toàn
dân".
Bổ túc vào đó là Ðiều 2 và Ðiều 3 xác
nhận Dân có những quyền tự do cơ bản
được Quốc Gia công nhận. Và Quốc Gia
được tổ chức theo chế độ Dân
Chủ Pháp Trị để bảo đảm Tự Do Dân
Chủ và Công Bằng Xã Hội cho người dân.
- Các Ðiều 2 và 3 Hiến Pháp CHXHCNVN 1992 hiện
hành cũng xác định "tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về Nhân Dân", và "nhà
nước bảo đảm và không ngừng phát huy
quyền làm chủ về mọi mặt của Nhân
Dân".
Như vậy, sau Nước hay Quốc Gia
(Ðiều 1), Dân hay Nhân Dân (các Ðiều 2 và 3) giữ vai trò
trọng yếu thứ 2, đứng trên Nhà Nước hay
Chính Quyền.
Ðó cũng là Học Thuyết Dân Quyền của
Mạnh Tử: "Lấy Dân làm trọng, Nhà
Nước là thứ yếu và coi nhẹ Chính
Quyền": Dân Vi Quý, Xã Tắc Thứ Chi, Quân Vi Khinh.
Vì có Dân mới có Nước, có Nước mới có Vua
(quân quyền hay chính quyền). Do đó Dân quý nhất
đứng trên cả Nhà Nước hay Chính Quyền và các
Chính Ðảng.
Ðiều 4 Hiến Pháp
Ðiều 4 Hiến Pháp 1992 hiện hành nói
về Ðảng là một tổ chức
quần chúng sinh hoạt trong xã hội xuất phát từ
Nhân Dân, nên không thể xếp hạng cao hơn Dân.
Tựu chung, trong Hiến Pháp 1992, các Ðiều 2 và 3
nói về Dân có tầm quan trọng hơn Ðiều 4 nói
về Ðảng. Vậy mà Ðiều 4 đã vượt
quyền, mâu thuẫn và đi trái với các Ðiều 2 và 3
khi dành cho Ðảng CS độc quyền tư tưởng
và độc quyền lãnh đạo Nhà Nước và xã
hội.
Như đã trình bày, hiện nay số
đảng viên CS chỉ
chiếm được từ 2% đến 3% dân
số Việt Nam. Và khối đông đảo trên 97% nhân
dân không được quyền tham gia vào guồng máy lãnh
đạo quốc gia. Ðó là một điều bất công,
phi lý và phi pháp.
Như vậy về pháp lý, chính trị và xã
hội, Dân phải được xếp hạng ưu
tiên cao hơn Ðảng. Và quyền lực Nhà Nước
phải thuộc về Dân chứ không thể thuộc
về Ðảng. Ðiều 4 Hiến Pháp phải bị hủy
bỏ vì đi trái Chính Thống Pháp Lý về hệ
thống quyền lực quốc gia, cũng như đi
trái Chính Thống Dân Chủ lấy Dân làm trọng, Nhà
Nước, Chính Quyền và Chính Ðảng là thứ yếu.
Ngoài việc vi phạm các Ðiều 2 và 3 Hiến
Pháp, Ðiều 4 còn đi trái với tinh thần và bản
văn của Ðiều 6, Ðiều 8, và Ðiều 11 Hiến
Pháp. Những điều này được soạn
thảo để khai triển quyền của Nhân Dân
được làm chủ Nhà Nước, làm chủ xã
hội trong đó có các hội đoàn dân sự như công
đoàn và các hội đoàn chính trị như chính
đảng. Nếu Dân đã làm chủ Nhà Nước và xã
hội thì Ðảng không thể độc đoán
tước đoạt quyền làm chủ nhà nước
vốn thuộc về quyền lực của Dân.
Tước đoạt quyền này là phản Dân. Mà
phản Dân là hại Nước.
Ðiều 4 Hiến Pháp phải bị hủy
bỏ vì những lý do pháp lý và chính trị nêu trên. Ngoài ra nó
còn đi trái Nhân Tâm, Văn Hóa và Ðạo Lý.
Ðiều 4 Hiến Pháp còn đi trái lòng dân
Ðiều 4 đã đem đến cho quốc dân
những chế độ phản dân tộc, phản nhân
loại theo Chủ Nghĩa Xã Hội Mác-Lênin, như chuyên
chính vô sản, chuyên chính tư tưởng, độc
quyền ý thức hệ và độc quyền lãnh
đạo nhà nước của một chính đảng
một mình một chợ là Ðảng CS.
Ðó là nhận định chung của đồng
bào các giới trong và ngoài nước. Trong cuốn Nhật
Ký Rồng Rắn, Tướng Trần Ðộ đã trình
bày những nhận xét và suy tư của một
người sống trong lòng chế độ, có lòng
với đất nước, đã từng gia nhập
Quân Ðội Nhân Dân từ thời niên thiếu, và đã
giữ những chức vụ quan trọng trong Ðảng
Cộng Sản như Phó Chính Ủy Quân Giải Phóng
Miền Nam, Phó Chủ Tịch Quốc Hội,
Trưởng Ban Văn Hóa Văn Nghệ Trung Ương. Cuốn
sách này được coi là một tập di chúc chính
trị để nhận định tình hình suy thoái
hiện nay, đồng thời đưa ra những
chủ trương dân chủ hóa đất nước và
phát triển kinh tế xã hội.
Về mặt chính trị và luật pháp,
Tướng Trần Ðộ có những nhận xét như
sau:
Trong thế giới hiện nay có hơn 100
nước đã phát triển và đạt tới trình
độ văn minh cao. Vậy mà họ không cần
đến chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã
hội với vô sản chuyên chính, độc quyền
tư tưởng và độc quyền lãnh đạo
của Ðảng Cộng Sản.
Bây giờ chỉ còn lại 4 nước nói là
theo Xã Hội Chủ Nghĩa. Tuy nhiên Trung Quốc đã
mặc nhiên giã từ chủ nghĩa Mác-Lênin và theo chủ
nghĩa thực dụng "có màu sắc Trung Quốc"
[được chứng nghiệm từ thời Ðặng
Tiểu Bình: "Mèo đen, mèo trắng, mèo nào cũng
tốt, miễn là bắt được chuột"].
Bắc Triều Tiên cũng buộc phải
mở cửa và hòa hợp với Nam Triều Tiên
để thoát khỏi cảnh nghèo đói, lạc hậu.
Có người nói Cách Mạng XHCN ở Nga thành
công năm 1917 là sự kiện quan trọng nhất của
thế kỷ 20. Vậy thì sự sụp đổ của
cái quan trọng ấy lại là "siêu quan trọng".
Ba mục tiêu chiến lược rút ra từ
Chủ Nghĩa Tam Dân của Tôn Dật Tiên là dân tộc
độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh
phúc. Từ Cách Mạng Tháng 8 đến nay đã hơn 60
năm mà các mục tiêu Tự Do Hạnh Phúc vẫn chưa
đạt được. Trong khi đó, tại một
số quốc gia Ðông Nam Á như Ðài Loan, Ðại Hàn, Thái Lan,
Mã Lai hay Tân Gia Ba, mặc dầu không theo xã hội chủ
nghĩa và cũng không có đảng cộng sản lãnh
đạo, các nước này trước kia cũng nghèo
khổ, vậy mà chỉ khoảng 20, 30 năm, họ
đã trở thành những nước phát triển về
kinh tế.
Trong khi đó, tại Việt Nam, hàng chục ngàn
gia đình dân oan tại nông thôn đã vùng lên đòi Quyền
Sống, vì bị Ðảng CS tước đoạt
ruộng đất nói là để phát triển công kỹ
nghệ. Ngoài ra còn có hàng trăm ngàn gia đình của các
chiến binh trong Quân Ðội Nhân Dân cũng như các cựu
chiến binh sinh sống về ngư nghiệp tại
miền duyên hải cách mạng Thanh Nghệ Tĩnh Bình
đã bị Ðảng CS phản bội bằng cách bán
nước Biển Ðông cho kẻ thù truyền kiếp
của dân tộc nhằm duy trì cái ghế chính quyền lung
lay của họ.
Ðộc lập thống nhất
Về mục tiêu giải phóng dân tộc
để giành lại độc lập và thống
nhất cho quốc gia, tác giả cuốn Nhật Ký
Rồng Rắn nhận định rằng nhiều
quốc gia đã giành được chủ quyền
độc lập mà không cần đến chiến tranh
bạo động võ trang.
[Về điểm này chúng ta cần Phục
Hồi Sự Thật Lịch Sử để minh
chứng rằng, cũng như tại 13 nước Á Châu
khác, các nhà Cách Mạng Quốc Gia Việt Nam theo Chủ
Nghĩa Dân Tộc, bằng đường lối
đấu tranh bất bạo động với hợp
tác và thương nghị, đã thành công trong việc thu
hồi chủ quyền độc lập và thống
nhất quốc gia 4 năm sau Thế Chiến II.
Sau Thế Chiến I, năm 1919, Tổng Thống
Hoa Kỳ Woodrow Wilson đề xướng quyền Dân
Tộc Tự Quyết tại Hội Quốc Liên - tổ
chức tiền thân của Liên Hiệp Quốc - để
khuyến cáo các Ðế Quốc Tây Phương từng
bước trả tự trị và độc lập cho
các thuộc địa Á Phi. Thuận theo khuyến cáo này,
năm 1919 Anh Quốc trả độc lập cho Canada
tại Bắc Mỹ và A Phú Hãn tại Nam Á.
Năm 1941, khi Thế Chiến II còn đang
tiếp diễn, các Quốc Gia Ðồng Minh Mỹ, Anh, Pháp
họp Hội Nghị New Foundland (Canada) để ký
Hiến Chương Ðại Tây Dương và cam kết
sẽ trả độc lập cho các thuộc địa
khi chiến tranh kết thúc.
Qua năm sau, tại Hoa Kỳ, các Ðồng Minh Tây
Phương công bố Tuyên Ngôn Liên Hiệp Quốc
để xác nhận lại lời cam kết sẽ
thực thi quyền Dân Tộc Tự Quyết của các
nước bảo hộ, giám hộ và thuộc địa
tại Á Phi.
Mùa Xuân 1945, khi Chiến Tranh Thái Bình Dương
đến hồi kết cuộc, 50 Quốc Gia Ðồng
Minh họp Hội Nghị San Francisco để thành lập
Liên Hiệp Quốc và ban hành Hiến Chương Liên Hiệp
Quốc nhằm bảo vệ hòa bình cho các quốc gia,
đồng thời đề xướng tự do nhân
quyền cho tất cả mọi người, đặc
biệt là Quyền Dân Tộc Tự Quyết.
Trung thành với những điều cam kết
minh thị và trang trọng trong Hiến Chương Ðại
Tây Dương (1941), Tuyên Ngôn Liên Hiệp Quốc (1942) và
Hiến Chương Liên Hiệp Quốc (1945), qua năm
sau, và chỉ trong vòng 3 năm, từ 1946 đến 1949,
tất cả các Ðế Quốc Tây Phương như
Mỹ, Anh, Pháp, Hà Lan đã lần lượt tự
giải thể để trả độc lập cho 12
nước thuộc địa, bảo hộ và giám hộ
tại Á Châu:
1. Ðộc lập năm 1946: Syria và Lebanon
(thuộc Pháp); và Phi Luật Tân (thuộc Hoa Kỳ).
Ðộc lập năm 1947: Ấn Ðộ và Ðại
Hồi (thuộc Anh).
Ðộc lập năm 1948: Miến Ðiện, Tích Lan
và Palestine (thuộc Anh).
Ðộc lập năm 1949: Việt Nam, Cao Miên và Ai
Lao (thuộc Pháp); và Nam Dương (thuộc Hà Lan).
(Hai nước trong Liên Bang Mã Lai Á là Mã Lai và Tân Gia
Ba chỉ được trao trả tự trị năm
1952 và độc lập năm 1957, sau khi Quân Ðội Hoàng
Gia Anh dẹp tan phe phiến loạn Cộng Sản theo Mao
Trạch Ðông đã lập chiến khu và chiến
đấu võ trang từ 1948).
Bằng đường lối đấu tranh
công khai, ôn hòa, hợp pháp, không bạo động và không
vọng ngoại (nhất là không liên kết với Quốc
Tế Cộng Sản), các nhà Cách Mạng Quốc Gia theo
Chủ Nghĩa Dân Tộc tại Á Châu đã giành
được chủ quyền độc lập cho
quốc gia từ 1 đến 4 năm sau Thế Chiến
II. Với chính sách hợp tác và thương nghị, các
chính đảng quốc gia tại 14 nước Á Châu
đã hoàn thành Cách Mạng Giải Phóng Dân Tộc mà không hao
tổn máu xương. Ðó là sách lược vận dụng
thời cơ theo trào lưu tiến hóa của lịch
sử. Ðiển hình là cuộc Giải Phóng Ấn Ðộ.
Tháng 5-1945, Ðức Quốc Xã đầu hàng
Ðồng Minh. Tháng 7-1945, Anh Quốc tổ chức tổng
tuyển cử. Thủ Tướng Winston Churchill,
người anh hùng dân tộc, chủ trương duy trì
thuộc địa để lấy lại vinh quang cho
đất nước.
Tới Thế Chiến II, Anh Quốc đã
thiết lập một đế quốc lớn nhất
từ cổ chí kim, với lãnh thổ chạy dài khắp
năm châu, và người dân Anh thường tự hào nói:
"mặt trời không bao giờ lặn trên Ðế
Quốc Anh". Vậy mà chỉ hai tháng sau khi chiến
thắng Hitler, người anh hùng dân tộc Winston Churchill
đã thất cử. Sau chiến tranh, kinh tế
nước Anh kiệt quệ, dân chúng đói khổ, và hàng
triệu cựu chiến binh không có công ăn việc làm.
Trong điều kiện kinh tế xã hội suy sụp
đó, Ðảng Lao Ðộng Anh đưa ra chương trình
tuyển cử nhằm phát triển kinh tế, cải
tiến dân sinh, giải phóng lao động và giải
phóng thuộc địa. Từ đầu Thế
Kỷ 20, Ðảng Xã Hội Pháp và Ðảng Lao Ðộng Anh
trong Tổ Chức Quốc Tế Xã Hội (Socialist
International) đã đề xướng chính sách giải
phóng lao động và giải phóng thuộc địa.
Trong cuộc Tổng Tuyển Cử tháng 7-1945, 2/3
cử tri Anh chấp thuận chương trình của
Ðảng Lao Ðộng. Ngoài ra, để tôn trọng lời
cam kết của Anh Quốc trong Hiến Chương
Ðại Tây Dương, Tuyên Ngôn Liên Hiệp Quốc và
Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, hai năm sau khi
đắc cử, tân thủ Tướng Lao Ðộng Clement
Attlee đã trả độc lập cho Ấn Ðộ và
Ðại Hồi năm 1947, và cho Miến Ðiện, Tích Lan và
Palestine năm 1948.
Tại Pháp cũng vậy. Sau Thế Chiến II,
Tướng De Gaulle, người anh hùng giải phóng dân
tộc, cũng chủ trương duy trì thuộc
địa để đem lại vinh quang cho đất
nước. Vậy mà chương trình phục quốc
của ông đã bị 2/3 cử tri Pháp bác bỏ trong cuộc
Trưng Cầu Dân Ý vào cuối năm 1945. Và từ
đầu năm 1946, sau khi Thủ Tướng De Gaulle
từ chức, Ðảng Xã Hội Pháp với Leon Blum, Marius
Moutet và Vincent Auriol đã đi tiền phong trong kế
hoạch giải phóng thuộc địa để trao
trả độc lập cho Syria và Lebanon từ 1946.
Cũng trong năm này, Lãnh Tụ Xã Hội Marius
Moutet, Bộ Trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại
đã ký với Hồ Chí Minh Thỏa Ước Tạm
Thời ngày 4-9-1946 để xúc tiến chương trình
giải thể đế quốc bằng đường
lối thương nghị ngoại giao. Trước
đó, ngày 6-3-1946, Hồ Chí Minh đã ký Hiệp Ước
Sơ Bộ Sainteny theo đó Pháp nhìn nhận Việt Nam là
một quốc gia tự trị trong Liên Bang Ðông
Dương và trong Liên Hiệp Pháp.
Tuy nhiên, để trung thành với
đường lối của Quốc Tế Cộng
Sản, Hồ Chí Minh đơn phương hủy bãi 2
Hiệp Ước Việt-Pháp để theo giải pháp
chiến tranh. Ðối với người cộng sản,
ký hiệp ước hòa bình không phải để thi hành
hiệp ước, mà chỉ nhằm đạt được
những mục tiêu chính trị giai đoạn. Ở
đây mục tiêu chính trị là sự thừa nhận trên
thực tế Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
do 2 Hiệp Ước Việt Pháp nói trên. Cũng vì
vậy, 3 tháng sau, ngày 19-12-1946, với sự yểm trợ
của Quốc Tế Cộng Sản, Hồ Chí Minh phát
động chiến tranh võ trang trong suốt 8 năm
(từ 1946 đến 1954).
Trong thời gian này tại Âu Châu, sau khi thôn tính và
sát nhập 3 nước Baltic là Lithuania, Estonia và Latvia vào
Liên Bang Sô Viết, Stalin thiết lập Bức Màn Sắt
gồm 7 nước Ðông Âu là Ba Lan, Hung Gia Lợi, Bảo
Gia Lợi, Tiệp Khắc, Ðông Ðức, An Ba Ni và Ru Ma
Ni. Từ đó Chiến Tranh Lạnh hay Chiến tranh
Ý Thức Hệ bộc phát giữa Quốc Tế Cộng
Sản và Thế Giới Dân Chủ.
Các nhà lãnh đạo phe Thế Giới Dân Chủ
tại Mỹ, Anh, Pháp, nhất quyết không trao Ðông
Dương cho Ðảng Cộng Sản Ðông Dương, vì
họ không muốn Stalin mở rộng Bức Màn Sắt
từ Ðông Âu qua Ðông Á. Tại Việt Nam, Pháp cũng không
chịu trả Nam Kỳ cho Hồ Chí Minh vì ông này là cán
bộ Quốc Tế Cộng Sản phụ trách miền
Ðông Nam Á.
Và kể từ 1947, sau khi Hồ Chí Minh phát
động chiến tranh võ trang vi phạm các Hiệp
Ước Việt Pháp, các Chính Phủ Pháp do Tổng
Thống Xã Hội Vincent Auriol lãnh đạo quyết
định sẽ không thương nghị với Hồ
Chí Minh nữa. Theo lời Bộ Trưởng Pháp Quốc
Hải Ngoại Marius Moutet "từ nay Pháp sẽ không
thương nghị với những chính phủ đã ký
hiệp ước mà không thi hành hiệp ước".
Và trong vòng hai năm, từ 1947 đến
1949, để giải quyết vấn đề Việt
Nam, Pháp đã ký với Quốc Trưởng Bảo Ðại
3 Hiệp Ước để trả lại chủ
quyền độc lập cho Quốc Gia Việt Nam:
Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long ngày
7-12-1947, Tuyên Cáo Chung Vịnh Hạ Long ngày 5-6-1948 và Hiệp
Ðịnh Elysee ngày 8-3-1949 ký kết tại Paris
giữa Tổng Thống Vincent Auriol và Quốc
Trưởng Bảo Ðại. Ðây là một hiệp
ước quốc tế đặc biệt có một không
hai trong lịch sử ngoại giao. Vì Hiệp Ðịnh Elysée
được chính Tổng Thống Pháp ký, với sự
chứng kiến và tham dự của Thủ Tướng,
Bộ Trưởng Ngoại Giao, Bộ Trưởng
Quốc Phòng và Bộ Trưởng Pháp Quốc Hải
Ngoại. Nhân danh Cộng Hòa Pháp, Tổng Thống Vincent
Auriol long trọng trao trả chủ quyền độc lập
cho Quốc Gia Việt Nam trước quốc dân Việt
Nam, trước quốc dân Pháp và trước cộng
đồng thế giới.
Cũng nên ghi nhận rằng, trong năm 1947, sau
khi ký Hiệp Ước Sơ Bộ Vịnh Hạ Long,
Chính Phủ Pháp đã đăng ký Việt Nam là
một quốc gia độc lập tại Liên Hiệp
Quốc. (Xin coi Everyone's United Nations, ấn bản năm
1986, trang 332). Tưy nhiên Liên Xô đã dùng quyền phủ
quyết để bãi bỏ sự đăng ký này.
Về vấn đề thống nhất
đất nước, chiếu Nguyên Tắc Dân Tộc
Tự Quyết, ngày 23-4-1949, Quốc Hội Nam Kỳ
biểu quyết giải tán chế độ Nam Kỳ
Tự Trị để sát nhập Nam Phần vào lãnh
thổ Quốc Gia Việt Nam độc lập và thống
nhất. Ngày 3-6-1949, Quốc Hội Pháp phê chuẩn Hiệp
Ðịnh Elysee về khoản trao trả Nam Kỳ cho
Quốc Gia Việt Nam. Và ngày 2-2-1950, Quốc Hội Pháp phê
chuẩn toàn bộ Hiệp Ðịnh Élysée, chấm dứt
chế độ thuộc địa và bảo hộ
tại Việt Nam.
Mặc dầu vậy Ðảng Cộng Sản
đã phủ nhận nền độc lập này và phá
hoại nền thống nhất này. Họ tiếp tục
chiến đấu võ trang trong suốt 20 năm, để
cướp chính quyền tại Miền Bắc năm 1954
và cướp chính quyền tại Miền Nam năm 1975.
Ðây không phải là chiến tranh giải phóng dân tộc mà là
chiến tranh ý thức hệ giữa Quốc Tế Cộng
Sản và Thế Giới Dân Chủ. Kinh nghiệm dân gian cho
biết nơi nào trâu bò húc nhau thì ruồi muỗi
chết. Hơn 3 triệu thanh niên nam nữ Việt
Nam đã hy sinh thân sống, không phải để giành
độc lập cho quốc gia, mà để cho Ðảng
Cộng Sản có cơ hội cướp chính quyền.
Căn cứ vào những tài liệu lịch
sử khách quan và vô tư, trên bình diện luật học và
chính trị học, chúng ta phải kết luận
rằng Ðảng Cộng Sản không có công giành
độc lập và không có công thống nhất đất
nước (Xin coi cuốn Restoring The Historic Truth
của người viết).
Vả lại, lịch sử còn cho biết, ngay
cả những nhà lãnh đạo có công với đất
nước như Winston Churchill và De Gaulle cũng đã rút
khỏi chính quyền mấy tháng sau khi hoàn thành nhiệm
vụ lịch sử. Những người lãnh đạo
Ðảng Cộng Sản hãy đọc lại Lịch
Sử để noi gương hai vị anh hùng dân tộc
Anh và Pháp. Ðiều đáng lưu ý là, sau một thời gian
hưu dưỡng, Tướng De Gaulle lại
được quốc dân Pháp tín nhiệm trong chức
vụ Tổng Thống. Và Ðảng Bảo Thủ của
Winston Churchill đã được nhiều cơ
hội trở lại chấp chính với các nhà lãnh
đạo tài cao đức trọng như nữ Thủ
Tướng Margaret Thatcher.
Tự do dân chủ
Theo Tướng Trần Ðộ, trong chiến tranh
và cách mạng, muốn phối hợp đấu tranh
phải tập trung quyền lực, chịu đựng
gian khổ và đặt mình dưới sự lãnh
đạo của đảng cầm quyền, chấp
nhận mọi hy sinh để chiến thắng.
Nhưng khi hòa bình vãn hồi, mục tiêu ưu tiên
là xây dựng đất nước, phát triển kinh
tế, thực thi tự do nhân quyền và mưu cầu
hạnh phúc cho người dân. Do đó không thể quản
lý xã hội như một trại lính. Trong thời bình nếu
cứ tiếp tục theo lề lối cũ, thì đó là
phản tiến bộ, phản động, phản dân
chủ và phản nhân dân.
[Về việc thực thi nhân quyền, năm
1942, trước diễn đàn Quốc Hội Hoa Kỳ,
Tổng Thống Franklin Roosevelt đề ra 4 quyền
tự do cơ bản là:
Tự do ngôn luận;
Tự do tín ngưỡng;
Quyền được giải thoát khỏi
sự túng thiếu; và
Quyền được giải thoát khỏi
sự sợ hãi, sợ hãi do xâm lược bên ngoài
(ngoại xâm) và chuyên chế bên trong (nội xâm).
Dưới chế độ độc tài toàn
trị, không có tự do ngôn luận, tự do tôn giáo,
người dân nông thôn và duyên hải chưa
được giải thoát khỏi sự nghèo túng, và toàn
dân vẫn chưa được giải thoát khỏi
sự sợ hãi].
Ngày nay, toàn dân đều sợ công an, sợ cán
bộ Ðảng, vì cán bộ Ðảng cũng như công an, hay
dò la, xem xét và dọa nạt dân chúng. Công an ngày càng nhiều
và ngày càng có nhiều nét của một hình ảnh khủng
bố.
Bộ máy quản lý xã hội thực hiện
nguyên tắc chuyên chính tàn bạo hơn tất cả các
thứ chuyên chính. Ðó là sự chuyên chính tư
tưởng được thực hiện bởi
một đội ngũ nòng cốt là những "lưu
manh tư tưởng". Chuyên chính tư tưởng ban
hành những đạo luật tàn khốc để bóp
nghẹt mọi suy nghĩ, mọi tiếng nói [và bắt
giam độc đoán những chiến sĩ dân chủ
bằng cách bịa đặt những tội trạng
giả tạo như tuyên truyền chống chế
độ, tuyên truyền chống nhà nước, lợi
dụng quyền tự do dân chủ, phá hoại chính sách
đoàn kết v...v...]
Nền chuyên chính vô sản này làm tê liệt toàn
bộ đời sống tinh thần của một dân
tộc, làm tê liệt sự hoạt động tinh
thần của nhiều thế hệ, ra sức nô dịch
toàn bộ tinh thần của nhiều thế hệ,
khiến con người trở thành những con vẹt
chỉ biết nhai lại các nguyên lý lỗi thời,
bảo thủ, giáo điều. Về mặt văn hóa, nó
làm cho giáo dục khô cứng, các hoạt động văn
học nghệ thuật nghèo nàn, mất hết cơ
hội sáng tạo và mất hết hào hứng. Các hoạt
động khoa học cũng bị khô cứng và nô
dịch. Nó tạo ra và buộc nhân dân phải có một tâm
lý lệ thuộc vào nhà nước, lệ thuộc vào
Ðảng, lệ thuộc vào cán bộ. Và nền chuyên chính tư
tưởng hiện nay ở Việt Nam là tổng hợp
các tội ác ghê gớm của Tần Thủy Hoàng và các vua
quan tàn bạo của Trung Quốc, cộng với những
tội ác của các chế độ phát-xít và độc
tài. Nó tàn phá cả một dân tộc và làm hại cả
một nòi giống. Tội nặng nhất là vi phạm
nhân quyền.
Theo các khẩu hiệu tuyên
truyền, các cán bộ cộng sản thường nói
họ có một chế độ XHCN và một xã hội
XHCN rất tốt đẹp cho một nhà nước có
tên là CHXHCNVN do Ðảng CS lãnh đạo. Bản chất
của chế độ XHCN là đem lại tự do dân
chủ và công bằng hạnh phúc cho nhân dân. Vậy mà ngày
nay, từ bậc cách mạng lão thành đến các nhà trí
thức và các thanh niên, ai cũng thấy là không phải
thế. Ðối chiếu với sự thật
thường ngày họ thấy chữ XHCN thật vô duyên
và vô nghĩa. Vì vậy có rất nhiều ý kiến muốn
lấy lại tên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa.
Trong chế độ độc
tài độc đảng, Ðảng CS công khai tuyên bố là
Ðảng lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối.
Họ đã quét sạch tất cả các đảng phái
quốc gia khác như Quốc Dân Ðảng, Ðồng Minh
Hội [cũng như Ðại Việt, Duy Dân, Lập
Hiến, Tân Tả Phái v...v...]. Hai Ðảng Dân Chủ và
Ðảng Xã Hội trong Mặt Trận Tổ Quốc đã
phải tự giải thể sau khi hoàn thành sứ mạng
trong cuộc Giải Phóng Miền Nam. Trong chế độ
độc tài độc đảng này không thể có dân
chủ. Nó có tính phản dân chủ và có liên hệ xa gần
với chế độ phát-xít. Vì vậy khẩu hiệu
tuyên truyền chiến lược từ thời Tổng
Khởi Nghĩa 1945 là xây dựng một chế độ
chính trị tốt đẹp, "dân chủ gấp
triệu lần dân chủ tư sản tây
phương" chỉ là những lời nói láo và
đã bị thực tế chửi lại.
Loại tuyên truyền dối trá,
giả nhân giả nghĩa này đã ảnh hưởng tai
hại đến đời sống tinh thần, văn
hóa và đạo lý của dân tộc.
Ngày nay ai cũng biết Ðảng
CS nói một đàng, làm một nẻo.
Nói thì dân chủ vì dân, mà làm thì
chuyên chính phát-xít, nghĩa là nói dối, nói láo, lừa
bịp, trò hề, "nói vậy mà không phải
vậy".
Chế độ này bắt
mọi người phải đóng trò từ trẻ con
đến người già. Nó tạo nên một xã hội
dối lừa, lãnh đạo dối lừa, Ðảng
dối lừa, cán bộ dối lừa, làm ăn giả
dối, giáo dục dối lừa, bằng cấp giả
dối, đến gia đình cũng lừa dối,
hứa hẹn lừa dối, tung hô lừa dối và
lễ hội cũng dối lừa.
Cũng vì sự chuyên chế và
tuyên truyền xảo trá, Ðảng CS ngày nay là một
tầng lớp thống trị, một tập đoàn
chuyên nghề bóc lột, hành hạ, sai khiến nhân dân và
lừa bịp nhân dân trong khi vẫn nhân danh là đầy
tớ của nhân dân.
Bên cạnh đó phát sinh một
hệ thống an ninh với Bộ Công An đầy
quyền lực và thủ đoạn học
được từ các chế độ phong kiến,
phát xít và độc tài cộng sản. Tất cả
nhằm bảo vệ quyền lực của Ðảng CS.
Chế độ này đang lung lay, nhưng cố che
lấp sự kém cỏi bất lực của mình
để ngày càng chuyên chế một cách quyết liệt
nhằm bảo vệ quyền và lợi trong sự
độc tài toàn trị, và đã thoát ra khỏi lòng tin
của nhân dân. Nếu Ðảng vẫn cứ ngoan cố duy
trì chế độ này thì sớm muộn nhân dân sẽ chán
ghét và từ đó dẫn đến đổ vỡ
với những tai họa khôn lường cho đất
nước và dân tộc, tai họa ấy còn nặng
nề gấp nhiều lần tai hại của Cải Cách
Ruộng Ðất và tai họa bắt cả nước xây
dựng Xã Hội Chủ Nghĩa.
Tai họa này sẽ xóa sạch vai
trò lịch sử của Ðảng và Ðảng sẽ phải
chịu tội trước lịch sư. Ôi, cay
đắng thay!
Cái guồng máy nhục mạ con
người
Mang bộ mặt hiền lành
của người cuốc đất
.............
Cay đắng thay
Mỉa mai thay
Trọn tuổi xuân ta hiến dâng cuồng
nhiệt
Lại đúc lên chính bộ máy này
(Bùi Minh Quốc)
Trong các mục tiêu của người dân thì lý
tưởng cao cả nhất, tha thiết nhất và bao
trùm nhất là Tự Do Dân Chủ. Vậy mà hiện nay,
hiện tượng nổi bật nhất là bộ máy
độc đoán và độc tài toàn trị của
Ðảng CS để đàn áp thẳng tay các ý kiến khác.
Có một đội ngũ "lưới gỗ"
rất đông đảo, chuyên ngụy biện, nói lấy
được, nói bừa bãi, trắng trợn, bất
chấp lẽ phải, đạo lý, hiến pháp và
luật pháp, nhiều khi bằng những thủ
đoạn lưu manh. Ðảng này xa rời nhân dân,
thống trị nhân dân, bắt nhân dân phải sống, nói
và làm theo ý Ðảng, nghĩa là nhân dân đã bị Ðảng
tước hết mọi quyền tự do dân chủ.
Như vậy, trên thực tế, sự độc
quyền lãnh đạo của Ðảng đã tạo nên
một bộ máy phá dân chủ một cách trắng trợn,
tinh vi và tàn bạo.
Bộ máy cai trị này đã tạo nên một xã
hội không có tự do dân chủ, đầy tệ nạn
tham nhũng, đầy tệ nạn xã hội, làm tất
cả mọi người trong xã hội không lúc nào
được yên tâm và thường xuyên lo lắng, sợ
hãi.
Về mặt chủ thuyết, chủ nghĩa xã
hội bị méo mó ngày càng lớn, càng cực đoan. Nó có
thể trở thành chế độ cộng sản
kiểu Mao-ít, cao hơn nữa là kiểu Pôn-Pốt đã
gây nên những tội phạm ghê gớm của loài
người.
Sự độc tài ý thức hệ và
độc tài toàn trị cùng với dối trá, lừa
bịp đã gây nên sự sợ hãi bao trùm làm tê liệt
mọi tư duy và tình cảm.
Nói tóm lại đó là một chế độ
lưu manh hóa xã hội, bần cùng hóa nhân dân, nô lệ hóa
con người và [phủ nhận hay] bình quân hóa mọi ý
nghĩ, cá tính, tình cảm và tư duy. Ðảng CS phải ý
thức nguy cơ này. Nếu không tôn trọng chế
độ dân chủ và sinh hoạt dân chủ thì chẳng
chóng thì chầy Ðảng sẽ bị giống nòi và dân
tộc loại trừ. Vậy mà ngày nay Ðảng vẫn cho
sinh mệnh và vai trò của mình là quan trọng hơn cả
sự phát triển của đất nước, hơn
cả cuộc sống của nhân dân, hơn cả sự
nghèo khổ và tụt hậu của đất
nước, thì chắc chắn Ðảng sẽ đi vào ngõ
cụt của sự tàn lụi.
Trong khi đó tại các quốc gia văn minh, các
Ðảng CS đã thay đổi chủ thuyết,
đường lối chính sách cũng như quan niệm
tổ chức và sinh hoạt để theo kịp trào
lưu dân chủ hóa và hiện đại hóa trên toàn
cầu. Chính Ðảng Cộng Sản Pháp cũng đã công
khai tuyên bố phủ nhận Chủ Nghĩa Xã Hội
Mác-Lênin, từ bỏ thuyết Chuyên Chính Vô Sản và chính
sách Tập Trung Dân Chủ. Vì đó là những học
thuyết lỗi thời phản dân tộc và phản nhân
loại. Nó còn đi trái với văn hóa, đạo lý [và
những lý tưởng truyền thống của dân tộc
như tinh thần đại đồng, tinh thần nhân
bản, tinh thần dân chủ, tinh thần hiếu hòa và
tinh thần bao dung].
Hiện nay những người lãnh đạo
Ðảng CS vẫn kiên định lấy chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng. Mà tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là
sự vận dụng chủ nghĩa Mác-Lê. Theo
chủ nghĩa này toàn dân toàn quân cũng như các cơ quan
nhà nước phải tuân phục Ðảng CS bằng
sự lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện.
Toàn thể nhân dân phải học tập và tuân hành nghị
quyết của Ðảng. Nhiều khi những nghị
quyết này đi ngược lại những quy
định về hiến pháp và luật pháp do quốc
hội thông qua. Mà quốc hội muốn thông qua cái gì
cũng phải được Ðảng phê duyệt.
Ðảng kiên trì chế độ tập trung
quyền lực, tập trung tư tưởng, tập
trung dân chủ trong chế độ vô sản chuyên chính.
Như vậy thực chất chế độ không
phải là có dân chủ xã hội chủ nghĩa mà là
chế độ xã hội phản dân chủ.
[Ngày nay tổ chức Quốc Tế Xã Hội
(Socialist International) quy tụ trên 60 Ðảng Xã Hội, Dân
Chủ Xã Hội, và Lao Ðộng trên thế giới. Tổ
chức Liên Minh Xã Hội Á Châu (Asian Socialist Conference) cũng
kết hợp môt số Ðảng Xã Hội và Lao Ðộng
tại vùng thế giới này. Cả hai tổ chức
Quốc Tế Xã Hội nói trên đều theo Chủ
Nghĩa Dân Chủ Xã Hội (Democratic Socialism), tôn trọng
những quyền tự do chính trị như tự do phát
biểu, tự do lập đảng, tự do tuyển
cử và bác bỏ chế độ mệnh danh là vô
sản chuyên chính hay độc tài đảng trị.
Bản Tuyên Ngôn Liên Minh Xã Hội Á Châu năm 1953 viết:
"Chúng tôi, các Ðảng Xã Hội, Dân Chủ Xã Hội và Lao
Ðộng tại Á Châu, tuyên bố phủ nhận chủ
nghĩa CS, và tuyên bố sẽ tiếp tục cuộc
chiến đấu của chúng tôi để thay thế các
chế độ phong kiến lạc hậu bằng
chế độ Dân Chủ Xã Hội."
Các Ðảng Xã Hội và Lao Ðộng tại Âu Châu
chủ trương giải phóng lao động bằng
đấu tranh đại nghị và nghiệp đoàn.
Họ đã góp phần xây dựng hòa bình thế giới,
nâng cao đời sống tinh thần và vật chất
của các tầng lớp lao động và tiểu tư
sản. Họ có những thành tích đấu tranh bảo
vệ tự do dân chủ và giải phóng lao động
từ cuối Thế Kỷ 19, đầu Thế Kỷ
20. Những Ðảng tiền phong là các Ðảng Lao Ðộng
tại Anh, Hà Lan, Úc, Canada, các Ðảng Xã Hội và Dân Chủ
Xã Hội tại Pháp, Ðức, Áo, Thụy Ðiển, Na Uy, Ðan
Mạch, Phần Lan, Tây Ban Nha, Bồ Ðào Nha v...v... Mới
đây sau cuộc Cách Mạng Dân Chủ 1989, các Ðảng Xã
Hội và Dân Chủ Xã Hội tại Ðông Âu đã phục
hoạt trở lại như tại Ðức, Ba Lan, Tiệp
Khắc, Hung Gia Lợi, Bảo Gia Lợi, An Ba Ni, Lỗ Ma
Ni v...v...
Trong lịch sử đấu tranh giải phóng
dân tộc và giải phóng lao động, các Ðảng Lao
Ðộng, Xã Hội và Dân Chủ Xã Hội Âu Châu là những
đối thủ nguy hiểm nhất của Ðảng CS.
Tháng 2-1917 Ðảng Dân Chủ Xã Hội của Kerensky
được nhân dân Nga tín nhiệm trong cuộc tổng
tuyển cử bầu Quốc Hội Lập Hiến. Tuy
nhiên, 8 tháng sau, Lênin đảo chính võ trang lật đổ
chế độ Kerensky để thành lập Liên Bang Sô
Viết theo chế độ CS, với vô sản chuyên
chính, độc tài đảng trị và độc
quyền tư tưởng. Sau 70 năm nắm chính
quyền, Ðảng CS Liên Xô đã không xây dựng
được chủ nghĩa xã hội chân chính theo
đường lối của Quốc Tế Xã Hội.
Kết quả là nhân dân vừa mất tự do, vừa lâm
vào cảnh nghèo khổ túng thiếu.]
Ở Việt Nam cũng vậy, tới
đầu thập niên 1980, xã hội chủ nghĩa là
"xếp hàng cả ngày", xã hội bất công, nhà
nước độc tài với những tệ nạn
ngày càng trầm trọng, đặc biệt là tệ
nạn tham nhũng. Do đó muốn xây dựng một
chế độ dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh, Việt Nam phải xóa
bỏ thứ (ngụy) chủ nghĩa xã hội với
độc tài toàn trị và độc quyền lãnh
đạo của Ðảng CS. Mà muốn đả phá chuyên
chính, đả phá toàn trị, đả phá độc
quyền thì phải xóa bỏ Ðiều 4 Hiến Pháp
[để thiết lập chế độ Dân Chủ Pháp
Trị theo Chủ Nghĩa Dân Chủ Tự Do hay Dân Chủ
Xã Hội chính thống của nhân loại văn minh].
Nhận định sau cùng là muốn hội
nhập vào cộng đồng các quốc gia văn minh trên
thế giới, các chính phủ, nhất là ở Việt
Nam, phải biết tự trọng và trọng danh dự
quốc gia bằng cách tôn trọng chữ ký và cam kết
của mình trong các Hiệp Ước và Công Ước
Quốc Tế, đặc biệt là Hiến Chương
Liên Hiệp Quốc, Công Ước Quốc Tế về
Những Quyền Dân Sự và Chính Trị và Công Ước
Quốc Tế về Những Quyền Kinh Tế Xã Hội
và Văn Hóa mà Chính Phủ đã ký kết và Quốc Hội
đã phê chuẩn. Có như vậy Việt Nam mới có
cơ hội tiến lên sánh vai với các nước dân
chủ tiến bộ trên thế giới để,
bằng hợp tác và hữu nghị, xây dựng một
nước Việt Nam dân chủ, phát triển, văn minh
và tiến bộ, đem lại tự do, hạnh phúc và công
bằng xã hội cho người dân.
Hải Ngoại ngày 15- 9-2007
LS. NGUYỄN HữU THỐNG
=END=
5- Câu Chuyện Việt Nam
- Chuyện không thể không
kể
Văn Quang
(VNN)
Trong tuần vừa qua, ở Việt Nam chẳng
thiếu gì chuyện lớn, chuyện nhỏ, lẩm
cẩm và không lẩm cẩm. Song đối với tôi, có
một chuyện nhỏ, tôi lại cho là điều
đáng phải tường trình với bạn đọc
hơn cả.
Số trước (224), ngay trong đoạn
đầu tiên về việc giúp đỡ anh em TPB VNCH, tôi
đã thông báo có một danh sách 5 TPB ở Houston gửi
về. Ngay sau đó, tôi đã yêu cầu anh Ðoàn Dự ở
Sài Gòn gửi ngay đến những anh em này mỗi
người 100 đô la trích trong số tiền của
độc giả Thời Báo Canada gửi tặng.
Không
chân, không tay, mù mắt làm sao ra bưu điện lãnh
tiền?!
Vài ngày sau, số anh em nhận
được quà tặng đã hồi âm. Duy chỉ có anh
Dương Quang Thương, ở Ðội 1, Hợp tác xã
Trung Tiến, Xã Lộc Tiến, Huyện Phú Lộc,
Thừa Thiên Huế là chưa có hồi âm. Chúng tôi hơi
sốt ruột. Nhưng gần một tuần sau, anh Ðoàn
Dự cho biết là vừa nhận được
điện thoại của người con gái anh
Dương Quang Thương gọi vào báo tin đã nhận
được tiền. Việc chậm trễ hồi âm
một vài ngày chẳng có gì đáng nói. Ðiều đáng nói
ở đây là lý do nhận được tiền chậm
của gia đình anh Thương.
Người con gái anh Thương là chị
Dương Thị Hoa kể rằng: Bố chúng cháu bị
cụt cả hai chân, hai tay, mắt lại mù nên chỉ
nằm trên giường. Khi bưu điện gọi ra
lãnh tiền, cả nhà cháu đều hết sức ngỡ
ngàng. Bởi từ trước tới nay chưa hề
nhận được tiền của ai giúp đỡ qua
bưu điện bao giờ. Vả lại Bố chúng cháu
không có chân, làm sao đi đến Bưu điện
được và có đi cũng không có tay, mắt lại
mù, làm sao mà ký nhận? Vì vậy bưu điện không
thể phát tiền được. Ðó là nguyên tắc
của họ. Cả nhà chỉ còn biết ngồi tiếc
ngẩn ngơ rồi khóc.
Ðối với người ở nông thôn, hơn
một trăm ngàn đã là quá khó kiếm, nói gì đến
hơn triệu đồng VN, quý lắm. Chị nói từ
bao lâu nay chị vẫn phải nuôi mấy đứa con
nhỏ và nuôi bố, trong khi người chồng của
chị đã rời bỏ quê hương, đi tha
phương cầu thực ở đâu chẳng biết.
Cuộc sống vô vàn khó khăn. Kể đến đây chị
Hoa cũng khóc.
Cũng may, trong xóm có người mách: ra Ủy Ban
xã mời người của ủy ban đến nhà
chứng kiến và làm giấy chứng nhận rồi mang
cái giấy đó ra bưu điện xã có thể lãnh
được. Chị Hoa đã làm theo và mấy ngày sau, gia
đình chị mới nhận được tiền.
Cả nhà chị xúc động, vui mừng như mở
hội. Chị nói rất nhiều đến những
lời cảm tạ như chưa từng
"được cảm tạ" như thế bao
giờ.
Sự việc này khiến chúng tôi bùi ngùi. Nhưng
anh em ở miền Trung xa quá, chúng tôi không thể đưa
đến tận tay từng người như đã
từng làm với các anh em ở Ðồng bằng sông
Cửu Long. Chỉ có cách gửi qua bưu điện là
nhanh nhất và phí tổn không nhiều. (Gửi hơn
một triệu đồng, phí tổn chừng ba chục
ngàn đồng VN). Sau đó, nếu có điều gì nghi
ngờ chúng tôi có thể dễ dàng kiểm lại.
Tôi bàn với anh Ðoàn Dự và tòa soạn gửi
tặng tiếp thêm cho gia đình anh Thương 200 CND
nữa, cũng trích trong số tiền của độc
giả Thời Báo Canada còn lại. Chúng tôi hy vọng độc
giả cũng sẽ đồng ý với chúng tôi về
việc này.
Nếu bạn đọc muốn giúp đỡ
gia đình anh Dương Quang Thương, xin gửi
về địa chỉ:
Chị Dương Thị Hoa: Ðội 1, Hợp
tác xã Trung Tiến, Xã Lộc Tiến, Huyện Phú Lộc,
Thừa Thiên Huế.
Xin cảm ơn anh Nguyễn Gia Quyết và
bạn đọc VietHouston đã cung cấp địa
chỉ.
Trong khi ở VN có những gia đình cực
kỳ nghèo khổ và những người dân sống trong
hoàn cảnh bệnh tật đau thương như
thế thì có hàng ngàn chuyện lãng phí, tham ô với những
thủ đoạn tinh vi, tàn bạo vừa được
công bố.
Kinh
hoàng chuyện ngân sách bị rút ruột hàng ngàn tỉ
đồng
Trước hết phải xác định ngay,
từ trước đến nay, người dân VN hoàn toàn
không hề hay viết gì về sự thâm thủng ngân sách.
Bởi có bao giờ họ được biết ngân sách
chi ra cho từng công trình là bao nhiêu đâu. Chỉ có các cán
bộ cấp cao và những "bên có liên quan" mới
được biết thôi. Cũng như những vùng quy
hoạch nào "thơm" nhất, giá nhà đất
sẽ lên vùn vụt thì chỉ có các quan biết với nhau.
Có khi còn giữ bí mật cả với vợ, nhưng
với bồ nhí thì hé lộ tí ti gọi là "đền
bù săn sóc" hay gọi là "tình phí" cũng không
sai. Quan chả mất gì mà "cưng" lại
hưởng lợi. Ðúng là "đôi bên cùng có lợi".
Tuy có nghi ngờ và gần như người
dân nào cũng có thể "hiểu ngầm" rằng
ngân sách bị xà xẻo bởi bọn sâu dân mọt
nước là chuyện tất nhiên.
Nhưng người ta không thể ngờ con
số lại lớn đến thế. 7.622,5 tỉ
đồng ngân sách, tức là tiền của nhân dân, bị
lãng phí, bòn rút trong năm 2005 khiến người dân choáng
váng như bị đấm vào mặt. Vậy năm 2006 và
2007 sẽ là bao nhiêu? Chưa kiểm toán, chưa biết được,
song chắc chắn đi theo đà phát triển kiểu
"tùm lum" này thì tất yếu nó phải gia tăng
theo tỉ lệ thuận. Không có gì phải "théc
méc".
Riêng trong năm 2005, dù chưa công bố chi
tiết và chưa đầy đủ, nhưng bản báo
cáo tóm tắt của Kiểm toán Nhà nước về ngân
sách năm 2005 vừa được công bố, cũng
đủ khiến người xem phải kinh hoàng. Nếu
đầy đủ hơn nữa, chắc có
người... bỏ xứ mà đi như các cô dâu lấy
chồng Hàn Quốc cho đỡ tức mình.
Nhìn lại 104 cuộc kiểm toán, số
lượng vi phạm lên đến gần 8.000 tỉ
đồng và 100% đơn vị được kiểm
toán đều "có vấn đề". Có nghĩa là
bất cứ khoản tiền nào nhà nước bỏ ra
làm đều bị "ăn cắp". Gọi là
"ăn cắp" không đúng hẳn, bởi cứ
mỗi khi có khoản tiền nào "rót xuống" là
lập tức có một "bộ tham mưu" bàn
bạc tính toán để chia nhau. Thế cho nên người
dân đã nhiều lần tính toán rằng nếu làm một
con đường, bỏ ra một trăm tỉ thì trên dưới
chia chác, đến anh nhà thầu bớt xén, biếu qua
biếu lại, con đường được làm
với 50 tỉ đã là may lắm rồi. Một ngôi nhà,
một hội trường, một nhà "lưu
niệm", một trụ sở Ủy Ban lẩm cẩm
nào đó, ngay cả một ngôi trường học thì
thường chỉ được "thi công" với
30% số tiền nhà nước bỏ ra. Như thế
phải gọi là ăn cướp mới đúng chữ
nghĩa VN. Cái sự thật đó, người dân đã
"thuộc" từ lâu chứ chẳng phải bây
giờ.
"Tiền chùa", ném đi đâu?
Chỉ lấy một hai thí dụ trong hàng ngàn
vụ: người ta có thể ném hàng tỉ đồng
vào những dự án không hề có giấy tờ gì như
bốn hạng mục ở Nhà máy điện Phú Mỹ 4.
Còn dự án cầu Vĩnh Tuy, người ta đã cò kè
để cố bớt từng đồng đền bù
ruộng đất của dân. Nhưng đã có gần 30
tỉ đồng đã được đền bù... cho
các tay có quyền có thế kéo theo cả một đàn,
một lũ vợ chồng con cái nội ngoại của
họ.
Cứ hỏi sao người dân "khiếu
kiện vượt cấp", hầu hết từ
đó mà ra. Cần gì phải hỏi.
Biết
trước dự án chết, vẫn làm
Có dự án người ta biết trước
chắc chắn sẽ chết, sẽ rơi vào vực
thẳm nhưng họ sẵn sàng bất chấp hậu
quả, miễn là cứ giải ngân càng sớm càng
tốt. Ðó là những dự án vượt thẩm
quyền, không đủ kinh phí, làm dở dang phơi
nắng dầm mưa như: 13 dự án xây trụ sở
làm việc ở Bạc Liêu, quốc lộ 6 Hòa Bình -
Sơn La hay đường hầm Viện Hải
dương học Nha Trang... Cứ làm, cứ chi, miễn
là có chấm mút. Chữ "chấm mút" lỗi thời
rồi, bây giờ phải dùng chữ "vồ"
mới sát cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Chấm mút
là còn "chút chút", là còn biết sợ. "Vồ"
là cứ xông tới chụp giựt bằng
được mới thôi. Cũng chưa thôi, nếu còn
"vồ" được là lại vồ tiếp,
vồ thường xuyên, vồ liên tục. Nó trở thành
"phổ biến" trong bất cứ khoản
tiền nào của ngân sách nhà nước, đó là thứ
"ngon nhất", bọn dân đen biết đấy
là đâu.
Không chỉ khéo bòn rút, phóng tay tiêu mà dường
như nhiều đơn vị coi ngân sách như của
riêng một số cán bộ đương chức. Họ
thoải mái cho vay, cho ứng, cắt tiền khoa học
công nghệ chi cho tiền hỗ trợ, vui chơi...
Tôi cam đoan rằng bạn đọc đã
từng dùng chữ "tiền chùa", nhưng chưa bao
giờ đúng bằng người dân VN dùng lúc này.
Một số vụ trong đợt kiểm toán
này đã được chuyển sang cơ quan điều
tra đồng thời tất cả các báo cáo của
kiểm toán nhà nước đều được
gửi đến Ban Chỉ đạo Trung ương
về phòng, chống tham nhũng để phối hợp
trong công tác phòng chống tham nhũng.
Hãy đợi xem kết quả của sự
chống tham nhũng này như thế nào. Chỉ sợ
nhiều quá chống không xuể, hồ sơ lại
chất đầy như núi theo với tháng năm... hiu
hắt ngọn đèn vàng!
Cửa Bắc Viện Hải dương học
Nha Trang cỏ dại mọc đầy, làm để...
bỏ không!
Còn những món ăn chơi hấp dẫn khác
Ngoài những "món ăn khoái khẩu" trong
mâm cỗ tiền chùa của ngân sách nhà nước, các quan
còn khối món ăn khoái khẩu khác nữa và những thú
vui chơi ly kỳ không giống ai. Vồ đất
của nhà nước chia nhau, sang đi bán lại,
đền bù lằng nhằng cũng kiếm mỗi
vị vài chục tỉ xài chơi. Gần nhất, những
vụ việc còn đang lằng nhằng như ở Kiên
Giang, Bình Dương, Tây Ninh... có thể là những dẫn
chứng cụ thể nhất. Gian manh hơn, khi cần có
luật để bảo vệ sự gian lận đó,
các quan bèn hè nhau đẻ ra luật lệ, đẻ ra
quyết định để hợp thức hóa. Gọi
là "tham mưu" cho cấp trên, "đề
xuất" như cái kiểu quân sư quạt mo, làm
sẵn "luật" cho cấp trên ban hành. Thế là mâm
cỗ dọn sẵn, họ hàng nhà quan chỉ việc
ngồi vào ăn thoải mái.
Ðấy mới chỉ là một trong những món
ăn chơi "thời thượng" của
những quan tham thời nay. Còn những món lập công ty xe
vận tải, xe ben, trường đá gà, kinh doanh
độc quyền đủ loại thì nhiều vô số
kể.
Có thể tạm kể ra món "độc
quyền lậu" của một quan chức thuộc
cơ quan đứng đầu cả nước về
chống buôn lậu lại đi xe lậu, đến tuần
vừa qua mới bị khám phá ra.
Người
của "bộ" dùng xe lậu của "bộ"
Chiếc xe hiệu Nissan Bảng kiểm soát (BKS)
số 80B-2641, vẫn thường hay lui tới các cảng
ở TP Sài Gòn cho đến Ðồng Nai, Bình Dương và
Vũng Tàu. Giới làm ăn vận tải đều
biết đến ông Ðặng Văn Lợi - quan chức
Tổng cục Hải quan (phía nam) - là người
điều khiển chiếc xe này. Họ cũng phải
kiêng nể bởi chính BKS xe cho thấy là người
của "bộ"(!?).
Nhưng khi kiểm tra chiếc xe này thì có tới
2 chiếc xe mang cùng biển số. Chiếc xe
"thật" của Tổng cục Hải quan không còn
hoạt động từ hơn 2 năm qua, còn chiếc xe
cũng mang biển số do ông Lợi dùng là xe giả.
Bằng chứng là anh Lê Duy Tuấn (nhân viên làm việc
tại Tổng cục Hải quan) khẳng định:
"Chiếc xe với BKS này là của Tổng cục
Hải quan, chính tôi là người lái chiếc xe này từ
năm 1993 đến năm 2003 thì xe bị hỏng. Sau
đó hơn 2 năm nay, chiếc xe bỏ ở đây.
Giấy tờ xe đứng tên chủ quản là Tổng
cục Hải quan...".
Với cương vị được Tổng
cục Hải quan giao phó trong lực lượng phòng,
chống buôn lậu, vị thế của ông Lợi
nổi như cồn. Do vậy, để lợi dụng
chức vụ quyền hạn của mình, ông Lợi đã
bắt tay vào cuộc làm ăn khiến giới kinh doanh
vận tải và làm thủ tục hải quan phải kiêng
dè và không dám ho he.
Lợi dụng chiếc xe quan đó, ông Lợi
lập ra doanh nghiệp Nhật Thịnh. Cao tay ấn
hơn, ông Lợi lại thuê ông Lê Văn Chiến
đứng tên làm giám đốc (GÐ) với ngành nghề
kinh doanh: "Dịch vụ giao nhận hàng xuất
nhập khẩu, khai thuế hải quan. Cho thuê kho bãi.
Ðại lý ký gửi hàng hóa. Kinh doanh vận tải hàng
bằng xe hơi". Chính từ việc có doanh nghiệp
(DN) trong tay, ông Lợi đã mở nhiều cuộc làm ăn
khiến giới kinh doanh vận tải bị chèn ép
hoặc cho ra rìa. Trong khi đó, ông Chiến khẳng
định: "DN Nhật Thịnh là của ông Lợi,
tôi được thuê làm giám đốc và đứng tên
giấy phép kinh doanh chứ mọi hoạt động,
điều hành đều do ông Lợi làm. Tôi có ký biên
bản khi chiếc xe lậu mang BKS 80B bị CA giữ. Lúc
đó ông Lợi năn nỉ tôi làm chuyện đó
để cứu ông ta. Còn doanh nghiệp thì từ tháng
4-2007 đến nay, ông Lợi đã lấy lại và tôi
không còn nhận lương cũng như làm việc cho DN
này nữa".
Bình
an vô sự
Doanh nghiệp Nhật Thịnh có khoảng 5
đầu kéo container, ông Lợi bắt đầu tìm các
nguồn hàng để chuyên chở. Chỉ riêng việc ông
Lợi can thiệp để Nhật Thịnh
được ký kết hợp đồng kinh tế
về việc thực hiện vận chuyển hàng hóa
bằng container và làm thủ tục cho hàng nhập khẩu
theo loại hình chuyển cửa khẩu của Cty Tong Hong
Tannery VN và Doanh nghiệp Nhật Thịnh thì món hưởng
lợi là rất lớn.
Vào thời điểm ký kết hợp
đồng là năm 2006 (hiện hợp đồng này
vẫn được thực hiện) là phí vận
chuyển loại container 20 feed có giá hơn 1,7 triệu
đồng, 40 feed có giá 2,3 triệu đồng... thì theo giá
thị trường, cũng đoạn đường
đó, cũng loại container đó, có giá thấp hơn
rất nhiều. Như vậy chưa kể việc
được ký hợp đồng vận chuyển và làm
thủ tục hải quan, Nhật Thịnh còn
được "ưu ái" có giá cước cao hơn
thị trường nhưng vẫn hoạt động
bình thường.
Không chỉ một doanh nghiệp, trong tay ông
Lợi còn có thêm một doanh nghiệp tư nhân khác hiện
đã hình thành cũng dưới tay ông Lợi tổ
chức, hiện hoạt động kiểu như
Nhật Thịnh. Ðoàn xe đầu kéo container của ông
Lợi hiện ngày đêm vẫn hoạt động và sau
những chặng đường đánh hàng lại về
tá túc ngay trong bãi xe nhà ông Lợi ở Q.2. TP. Sài Gòn.
Ðến nay, chiếc xe lậu của ông Lợi
đã bị CA tịch thu bán đấu giá, thế nhưng
ông Lợi vẫn bình yên vô sự? Và đằng sau
chiếc xe ấy có rất nhiều điều mờ ám
gắn liền với việc "làm ăn" của
quan chức chống buôn lậu ngành hải quan này. Vậy
mà mọi sự vẫn êm ru. Thế mới là chuyện
lạ. Chẳng biết Tổng cục Hải quan nghĩ
sao? Người dân có quyền đặt câu hỏi: Hay
là... lại ngại "rút dây động rừng"?
Chiếc xe có hai biển số, xe thật của
Tổng cục Hải quan đã hư hỏng bị
bỏ xó, ông Lợi dùng biển số này cho xe
"lậu" của mình đi làm ăn riêng.
Thú
chơi không giống ai
Ngoài chuyện "ăn", đến
chuyện "chơi", những món ăn chơi trác táng
như kiểu Hiền Chèo đưa các em được
gọi là "nghệ sĩ và sinh viên thứ thiệt"
ra Quảng Ninh cho các quan giải trí cùng hàng loạt vụ
ăn chơi nổi đình đám của "tập
đoàn Bùi Tiến Dũng" ở Hà Nội đã là
chuyện bình thường rồi. Nhưng đó là trò
giải trí của các quan to. Các quan nhỏ ở địa
phương cũng có những trò giải trí "lẩm
cẩm" khác người.
Có một chuyện được người
dân mang ra kể lại như chuyện tiếu lâm. Tối
26-2-2007, ông Chung (Trưởng công an xã Tân Hưng, Ðồng
Phú, Bình Phước) chắc là sau khi đã "ngà ngà"
bèn bắt em Nguyễn Văn Beo (17 tuổi) về trụ
sở công an xã. Sau đó, ông Chung đánh đập và
lệnh cho một nghi can khác đang bị bắt dùng dao
cạo một góc đầu của em Beo ngồi coi
chơi đỡ buồn. Trông cái đầu của em có
sọc, cứ như quả dưa gang, chắc là các quan xã
khoái chí lắm.
Sở dĩ người dân nhắc lại vì
dư luận um xùm quá, nên anh công an này vừa bị lãnh 9
tháng tù treo vì tội làm nhục người khác. Hình
phạt đó có vẻ như còn hơi nhẹ.
"Treo" thì chưa đủ sức ngăn chặn
những thú chơi ngông khác của mấy anh quan nhí.
Nguyễn Văn Beo với mái đầu bị
cạo như quả dưa gang!
Hậu
quả lâu dài
Tuy nhiên, mái tóc em Beo sau vài tháng còn có thể mọc
lại. Còn có những thú chơi để lại hậu
quả lâu dài cho các em nhỏ.
Huỳnh Thị Ngọc Trâm, nguyên học sinh
lớp 5, trường tiểu học An Hiệp 2, bị
nghi ngờ lấy 47.800 đồng tiền quỹ lớp.
Ngày 14-3, nguyên hiệu trưởng Lưu Văn Ca cử
thày giáo phụ trách đội là Lê Văn Xem chở em
đến Công an xã, đưa vào phòng riêng lấy lời
khai, bắt viết bản tường trình mà không có
người giám hộ. Sau đó, em Trâm bị hoảng
loạn tinh thần, phải nghỉ học để
điều trị tới nay. Những người liên quan
đến việc lấy cung bé Trâm đã chịu cảnh
cáo, kỷ luật. Song hậu quả thì còn lâu dài.
Sáng 5-9-2007 vừa qua, trong khi bạn đồng
lứa nô nức đến trường dự khai
giảng thì Huỳnh Thị Ngọc Trâm, nữ sinh bị
hoảng loạn sau cuộc hỏi cung vì nghi án 47.800
đồng ở huyện Châu Thành, tỉnh Ðồng Tháp,
lại phải nghỉ học, chuẩn bị tư trang lên
TP. Sài Gòn chữa bệnh.
Chị Nga - mẹ em - kể, tối 4-9 vừa
qua, khi thày chủ nhiệm lớp cũ của em gọi
điện thoại thông báo ngày khai giảng, Trâm chỉ
lặng nghe rồi tắt máy. Cũng theo lời chị
Nga, sau gần 6 tháng điều trị tại bệnh
viện Nhi đồng 1 và Tâm thần TP. Sài Gòn, sức
khỏe Trâm đã tương đối ổn
định. Tuy nhiên, em vẫn chưa nói thành tiếng rõ
ràng, không chịu tiếp xúc với người lạ,
kể cả bạn thân. Gia đình đã chuyển em lên
Thị xã Sa Ðéc sống cùng bà ngoại, để cách ly môi
trường gây bệnh cho em. Tức là xa lánh hẳn ngôi
làng đã ám ảnh tâm trí em; nay lại phải đưa
lên thành phố Sài Gòn chữa bệnh. Chưa biết
đến bao giờ cô bé học trò mới quên
được nỗi sợ hãi đã bị "hỏi
cung" như vậy.
Trong ngày khai giảng năm nay, trong khi bạn
đồng lứa nô nức đến trường
dự khai giảng thì Huỳnh Thị Ngọc Trâm phải
đưa lên Sài Gòn chữa bệnh tâm thần.
Tình
yêu là như thế
Tạm ngưng những chuyện buồn đó
để bạn đọc đỡ nhức đầu,
xin kể một chuyện vui, tôi cho là rất lý thú. Một
chuyện tình đáng nể giữa thời đại
văn minh hiện đại này. Trong khi có những mối
tình sống vội, yêu chớp nhoáng rồi chuồn lẹ
hoặc có những mối tình sinh viên với các đại
gia, cẳng dài với "ông kẹ", chuyện tình
một đêm... chung quy chỉ vì tiền thì giữa công
viên lại xảy ra một chuyện tình khá ly kỳ.
Ðọc câu chuyện thời sự lẩm cẩm này, quả
thật tôi thấy thú vị lắm và chỉ có thể
mỉm cười kết luận "đó mới
thật là tình yêu". Xin tường thuật lại
để bạn đọc cùng "thư giãn" và chiêm
nghiệm.
"Romeo
- Juliet nhặt rác"
Khu vực hồ Ðống Ða (Hà Nội) có một
đôi bạn già, ngày đi nhặt rác, tối ngủ ven
hồ hoặc trong các ống cống. Bà dở dở
điên điên, ông lần nào bị con bắt lên xe hơi
đưa về nhà rồi cũng "vượt
ngục", trở lại cuộc sống "màn
trời chiếu đất" với "người
tình Juliet"...
Chẳng ai biết tên cũng như lai lịch
của 2 ông bà, những người thường đi qua
công viên chỉ thấy họ suốt ngày "cặp
kè" với nhau như một đôi tình nhân thắm
thiết lắm. Người đàn ông khoảng ngoài 60, còn
người phụ nữ, đã quá tuổi 50.
Họ đã đặt tên cho đôi tình nhân này là
"Romeo và Juliet nhặt rác". Cái tên nghe có vẻ xúc
phạm, nhưng thật ra đó lại là sự suy tôn
mối tình của hai người bạn già này. Bởi
họ đã cùng nhau vượt qua nhiều "hoạn
nạn" cam chịu nghèo khổ cùng nhau, nhất
quyết không rời xa, không màng phú quý.
Romeo ngủ tạm bên hồ trong khi chờ
đợi người tình Juliet nhặt rác trở về
tổ ấm.
Con
mang xe hơi đến "bắt cóc", bố vẫn
không chịu về
Có một hôm, người đi tập thể
dục buổi chiều quanh hồ Ðống Ða thấy 1
chiếc xe hơi khá sang trọng dừng lại
trước căn nhà ống cống của "Romeo và
Juliet nhặt rác". 4 người đàn ông cùng 2 phụ
nữ từ trong xe bước ra, trèo lên nóc cống
rồi hò nhau lôi "Romeo" đang trốn bên trong ra,
"quẳng" lên xe hơi, mặc ông già ra sức giãy
giụa.
Người đi đường thấy
vậy xúm lại định can thiệp thì một trong 2
người phụ nữ phân trần: "Ðây là bố
chồng em, chẳng biết cụ phải bùa phải
bả gì "bà điên" kia mà bỏ nhà bỏ cửa,
bỏ con cháu để ra đây sống trong ống
cống, chúng em phải thuê người đi tìm mãi mới
được!".
Xe hơi chở "Romeo" đi khuất,
"Juliet" mới lò dò chui từ trong đám ống
cống bên cạnh ra, cứ ôm mặt khóc rưng rức.
Sau gần 2 tuần bị "bắt
về", bất ngờ "Romeo" lại xuất
hiện ở những chiếc ống cống. Có
người tò mò tới hỏi thăm, ông hớn hở
khoe: "Chúng nó đem tôi về nhà thằng anh cả,
nhốt lại không cho đi đâu. Mãi tôi mới trốn
ra được đấy!".
Biết bố "ngụ" trong những
chiếc ống cống, mấy người con của
"Romeo" một lần nữa quay lại "bắt
cóc" bố về. Ðược vài bữa, ông lại
trốn ra và quay về với "Juliet nhặt rác".
Ðiệp khúc ấy cứ diễn đi diễn lại vài
lần, mãi rồi những người con cũng chịu
thua, không tìm nữa.
Tôi hoan nghênh sự hiếu thảo của
những người con, nhưng bái phục ông già Romeo trên
sáu bó này hơn. Xin hãy để cho cặp tình nhân tuyệt
vời này được sống trong cái thế giới
của riêng mình. Như một tấm gương rất
đẹp cho cả một thời đại.
Bạn đọc nghĩ gì khi hình dung ra cảnh
này? Tôi hy vọng bạn tìm lại được một
chút thư thái trong tâm hồn mình và yêu người, yêu
đời hơn. Tình yêu là như thế.
Ðường vào tổ ấm trong ống cống
của cặp tình nhân "Romeo và Juliet nhặt rác". Ðây
là hình ảnh nàng Juliet đang trở về.
=END=
6- Văn Học Nghệ Thuật
- Mối Tình Việt Ấn
Nguyễn Phan Ngọc An
Một câu chuyện tình đầy thơ mộng
và lý thú đã xảy ra tại vùng thung lũng Silicon cách nay
gần mười năm...
Theresa Thiên Kim, tên của nàng - Thiên Kim đến
Hoa Kỳ theo diện HO cùng cha mẹ và 6 anh chị em, nàng
là người con áp út - Vào năm 1990 Thiên Kim vừa tròn 20
tuổi. Ðến xứ lạ quê người trong hoàn
cảnh gia đình khó khăn, chính phủ Hoa Kỳ chỉ
cấp dưỡng trong vòng 8 tháng mà thôi, sau đó mỗi
người lăn bổ đi tìm việc... Thời
ấy công việc làm không thiếu, hãng xưởng tại
vùng Silicon tràn ngập nên anh chị em nàng tìm việc rất
dễ dàng.
Hàng ngày Thiên Kim đi đến hãng điện
tử Solectron làm việc, nơi đây nàng gặp rất
nhiều người Việt Nam cũng là nhân viên như
nàng - Niềm vui tao ngộ đồng hương đã cho
nàng thêm sức sống, cha nàng là Ðại Tá QLVNCH thời
đệ nhị Cộng Hòa. Qua chương trình HO 1 gia
đình không rớt lại một ai nên cha mẹ nàng
cũng có phần mãn nguyện. Nhưng tạo hóa trớ
trêu gây cảnh đất bằng dậy sóng, một
buổi cha nàng đi tập thể dục như hàng ngày
cha vẫn đi bộ suốt hai giờ liền trong
những dãy nhà song song với nhà nàng. Một người
đàn bà từ đâu xuất hiện đi bộ sau
lưng cha rồi bà kiếm chuyện làm quen, ba nàng tuy
năm ấy cũng đã tròm trèm 70 nhưng trông vẫn còn
tráng kiện, nhìn cứ tưởng khoảng 60 thôi -
Thường thì mỗi ngày ba nàng chỉ đi bộ vài
giờ vào buổi sáng là về nhà ăn điểm tâm, cà
phê mẹ dọn sẵn để trên bàn cho cha - Hơn
một tháng nay cha nàng đã thay đổi cách sống, sáng
ra đường là cha đi một mạch tới
tối mới về nhà, cha chưng diện chải
chuốt bảnh bao một cách lạ thường, cha không
còn thời giờ quan tâm các con hay là săn sóc mẹ nàng
như xưa...Mẹ buồn rầu đâm bệnh
nặng, cơn bệnh trầm tư từ trong óc não
đã khiến mẹ nàng không nói được và nằm
liệt suốt hai năm liền - Sau khi thấy bệnh
tình của mẹ càng ngày càng nguy nan, cha hối hận quay
về thì đã muộn, mẹ nàng từ giã cõi đời
vào một đêm mưa bão bất ngờ từ đâu
thổi tới bởi xứ thung lũng này ít khi
được mưa bão đoái hoài, mưa thỉnh
thoảng có thì như mưa phùn lác đác vậy thôi...
Mẹ nằm bất động trên
giường sau khi anh chị em nàng đã chạy chữa
qua nhiều Bác Sĩ Y Khoa và Ðông Y, tất cả đều
bó tay chờ định mệnh an bài - Trên tay mẹ
vẫn cầm một chiếc đồng hồ bằng
vàng mà như Thiên Kim biết là quà sinh nhật cha đã
tặng mẹ cách nay ba năm - Mẹ không đeo chiếc
đồng hồ vào tay mà chỉ cất giữ trong
chiếc hộp thủy tinh tuyệt đẹp, nhiều
lúc chị gái nàng hỏi:
- Sao mẹ không đeo đồng hồ ba
tặng, bàn tay mẹ thon thon, cổ tay đầy
đặn, mẹ đeo vào sẽ đẹp và tăng thêm
sự quý phái, hay mẹ để con lấy đồng
hồ ra đeo hộ cho mẹ nhé?
- Ðừng con, mẹ ôn tồn trả lời:
Mẹ quý chiếc đồng hồ ba đã tặng
như chính bản thân của mẹ, mẹ không muốn nó
bị trầy hay bị cũ đi nên mẹ chỉ
để dành ngắm nghía mà thôi, thấy nó là thấy hình
ảnh ba con... Dạo nầy ba con sinh tật đam mê
người đàn bà khác bỏ mẹ cô đơn, không có
ba con bên cạnh thì có chiếc đồng hồ thay
thế mẹ cũng thấy bớt đi phần nào
niềm đau đớn tuy biết rằng mẹ đã
phải ôm vào cuối cuộc đời niềm bất
hạnh không ngờ!
Sau lần tậm sự đó mẹ nàng không nói
được nữa và lâm bệnh trầm kha từ giã
cuộc đời đau thương tủi phận, ngày
tang lễ cha quỳ xuống ăn năn hối hận,
nước mắt cha tuôn trào trên gương mặt héo hon
khắc khổ... Cha bước đến bên mẹ tháo
chiếc đồng hồ đã chặt cứng trong bàn
tay giá lạnh của mẹ rồi mang vào cườm tay
mẹ với cõi lòng nát tan.
Lá đã rụng đầy trên lối đi
Mùa thu vàng úa nỗi ai bi
Ðông về trong gió buồn se lạnh
Ai biết lòng ta trĩu nặng gì...
Chưa giã từ nhau sao vội đi
Nửa chừng lỗi nhịp khúc từ ly
Trăm năm một thoáng mơ hồ mộng
Người đã xa rồi, lệ ướt mi
Nhân thế đau buồn chuyện tử sinh
Bao nhiêu họa phúc giữa điêu linh
Phù du, tan hợp là thân phận
Biển khổ lênh đênh một chữ tình
Ai tiếc mùa thu, thương lá rụng
Ai về ấp ủ mộng xuân sang
Cho tôi gửi gấm niềm tâm sự
Ðến chốn vô cùng của nát tan...
Mùa thu Cali buồn và lạnh, những chiếc lá
vàng thi nhau rơi lác đác ven đường làm lòng Thiên
Kim chùng xuống, hai tuần vắng bóng người mẹ
thân yêu vĩnh viễn, nàng biết làm gì để khỏa
lấp nỗi trống vắng đến ghê sợ này, cha
thì nằm li bì trong phòng riêng suốt ngày đêm, khi cần
ăn uống cầm chừng cha ra ngoài bàn ngồi lặng
lẽ và thường lẫn tránh cặp mắt anh chị
em nàng - Mất người vợ hiền dường
như cha cũng bỏ luôn người đàn bà hắc ám
kia nên sau mấy tháng liền cha không đi tập thể
dục và cũng không thấy cha đi ra khỏi nhà cũng
không còn chưng diện như xưa.
Gió vẫn rít từng cơn não nuột, trên xa
lộ mênh mông đơn độc Thiên Kim thấy buồn
cho số phận mỏng manh, gần ba chục tuổi
đầu không tìm được một tình yêu... Những
hàng cây xanh đỏ tím vàng san sát bên nhau đẹp lạ
lùng cũng không làm nàng vui được, những hình
ảnh trước mắt mà hàng ngày nàng vẫn không quan tâm
khi đi làm trên thành phố xa xôi này, hôm nay bất chợt
nàng nhớ đến một bài thơ của một thi
nhân đã tả về cảnh đẹp mùa thu, vì thích thú
nàng đã thuộc lòng bài thơ tự khi nào không hay...Thiên
Kim lẩm nhẩm:
Cho đến muôn đời thu vẫn
đẹp
Lá vàng pha lá đỏ tươi xinh
Bên đường lặng lẽ hàng cây
đứng
Những đóa hồng khoe sắc hữu tình
Phố Palo Alto êm đềm thơ mộng
Một buổi chiều lữ khách ghé thăm
Hoa lá reo vui theo gió lộng
Làm say lòng bao gã thi nhân...
Ta cũng say sưa phố lạ chiều
Muôn trùng lá thắm đọng thương yêu
Dọc theo con lộ dài hun hút
Vàng, đỏ, nâu, hồng... thoáng tịch liêu
Rừng lá mùa thu trải khắp miền
Ðiểm tô thêm đẹp phố bình yên
Ta ngơ ngẩn với ngàn hoa lá
Hồn bướm mơ tiên... chẳng lụy
phiền
Ta thấy quanh ta xác lá vàng
Quyện tròn trong gió buổi thu sang
Tưởng như ai đó đang vương
vấn
Cho mộng thêm dài... lạnh gối chăn!
Cảnh đẹp cho hồn ta ngất ngây
Tình thơ lai láng giữa trời mây
Nhìn thu ta bỗng lòng say đắm
Giấc mộng Hằng Nga... giữa cõi này...
Tâm hồn Thiên Kim bay bỗng như hòa nhập vào
những câu thơ trữ tình kia, bỗng "rầm"
nàng đã tông vào xe phía trước, người lái xe
mở cửa bước xuống tiến về phía Thiên
Kim khi nàng vội vã tắt máy ngừng xe lại ngay sau xe
người ấy - Một người đàn ông
nước ngoài, có lẽ là người Iran Iraq hay Ấn
Ðộ gì đây...Thiên Kim hạ kiếng xuống ngồi im
chờ thái độ người kia để nàng hạ
mình xin lỗị Ông ta nhìn nàng rồi nói nhỏ nhẹ
một tràng tiếng Anh, tay chỉ vào chỗ xe bị
đụng - Thiên Kim lính quýnh không biết phải làm sao,
bởi nàng tiếng Anh không giỏi chỉ đủ
để đi làm trong hãng xưởng mà thôi, nàng lấp
bấp:
- I am sorry for this happening, but I have my insurance to cover
for the damage of your car.
- That's all right! Would you please give me your car insurance,
and your driver licensẹ Ông ta trả lời nàng.
Ông lấy số phone của Thiên Kim và ghi số
xe cùng số bằng lái và insurance của nàng xong chào nàng và
tiếp tục lái xe đi mà không gọi 911 - Thiên Kim hoàn
hồn, đưa tay đấm vào đầu thật
mạnh " từ nay quyết chừa tật mộng
mơ khi lái xe nghe nhỏ khùng."
Ðã qua một tuần vẫn không thấy
người bị nàng đụng xe làm gì cả, hay ông ta
tốt bụng thương hại nàng mà không bắt nàng
bồi thường. Nàng không tin vào điều mơ
ước đó, dễ gì... " Người Việt Nam
còn hoạ may có tình đồng chủng, ông này người
khác giống khác giòng đừng mơ mộng viễn vông
nữa nhỏ khùng ơi" Thiên Kim hay tự nguyền
rủa mình là nhỏ khùng mỗi khi làm điều sai
trật hay lỡ lầm xử lý thiếu đạo
đức và trung thực với lương tâm... bởi
lẽ đó nhiều khi nàng tự nghĩ " hay ta cứ
mắng ta khùng rồi khùng thật rồi chăng, cũng
nhan sắc, cũng khôn ngoan, lịch lãm mà chẳng thằng
ma nào để mắt thương dùm, dù trong hãng ta làm
khối người Việt đẹp trai bãnh chọe
đếm không hết"...
Tiếng điện thoại reo vang cắt ngang
dòng tư tưởng của Thiên Kim, lạ nhỉ, bây
giờ là 10 giờ đêm, ai gọi mình vào giờ đi
ngủ vậy? Tin chắc cha đã ngủ, các anh chị
dần dần lập gia thất ra riêng, thằng út cũng
đã ra trường đi làm xa, Thiên Kim yên tâm nhấc phone
lên và giật thót người " chết cha rồi,
thằng cha Iraq bị mình đụng xe hôm trước,
chết cha rồi, mẹ ơi mẹ linh thiêng phù hộ
cho con mọi việc êm xuôi tốt đẹp nha mẹ
thương yêu của con".
Ông ta hẹn nàng ngày mai lúc 10 giờ sáng tại
tiệm Tùng Auto Repair trên đường Senter để
nàng trả tiền sửa xe cho ông - Nàng đồng ý
nhận lời cái hẹn sáng mai tuy rằng cũng hơi
lo ngại cho số tiền Repair không biết là bao nhiêu?
Gặp lại lần thứ hai, người
đàn ông rất tự nhiên và cởi mở trò chuyện
thân mật với nàng, dù không giỏi tiếng Anh nhưng
nàng cũng khá về từ ngữ nên đã hiểu
được những gì ông ta vừa trao đổi và tìm
hiểu về bản thân nàng... Thì ra ông ta là người
Ấn Ðộ, với đôi mắt sáng tinh anh, nước
da ngâm, thân hình bệ vệ có vẽ hơi phì...
tướng thì cũng ngon cơm nhưng đi chiếc xe
cũ kỹ thì chắc chắn cũng nghèo rớt mồng
tơi như ta thôi, cái mộng ông ta thương tình mà không
đền tan vào mây khói lãng du rồi nhỏ khùng ơi...
Một phép mầu từ đâu đưa
đến, chắc hồn mẹ linh thiêng đã phù hộ
cho nàng, sau một hồi nói chuyện ông mời nàng đi
ăn trưa để thời gian cho tiệm Tùng
định giá cả hư hại thế nàọ Khi
trở về chỗ sửa xe ông nói với người
chủ "I'm going to pay by my credit card."
Một cảm mến tư cách người
ngoại quốc lâng lâng trong hồn người con gái
Việt Nam, nàng nhìn trăng đêm nay sao đẹp và
thơ mộng hơn những đêm trước, Thiên Kim
có tật thức khuya ngồi lặng lẽ một mình ôm
vào lòng bao tâm sự rồi tự than vãn một mình và
quyết định một mình, phải chăng cuộc
đời nàng là cả một chuổi cô đơn và
tự quyết, tự lập như chính bản thân nàng
trong hiện tại - Từ tình cảm thân mến đó,
người đàn ông Ấn Ðộ tên Kan đã đến
thăm nàng tại nhà riêng của cha con nàng, cha không có
phản ứng gì bởi thấy nàng cũng đã lớn,
toàn quyền quyết định chuyện riêng tư - Ai dè
chuyện đụng xe lại đem đến cho nàng
một may mắn có được một tình thân bè
bạn, chắc chắn là mẹ chớ không còn ai vào
đây mà giúp nàng như thế cả - Mỗi lần
đến nhà thăm nàng ông Kan thường đến bên
bàn thờ Mẹ lấy một nén nhang đốt lên và
cắm vào chiếc lư nhang, nàng để ý thấy
điều đó không bao giờ ông Kan quên làm sau khi ngồi
vài ba phút... Cảm động trước tình người
cao đẹp có đạo đức như vậy, Thiên
Kim dần dà yêu thương tuy biết rằng ông ta
cũng nghèo khó cơ hàn không thể lo cho nàng một
cuộc sống tốt đẹp và khấm khá hơn.
Thời gian dần trôi qua trong những
bước thăng trầm, trong tình yêu chân thật của
cả hai, một hôm Thiên Kim hỏi:
- Em không hiểu tại sao anh là người khác
chủng tộc với em mà lại quá tốt, mỗi
lần đến nhà em là y như rằng chỉ vài phút sau
là anh đốt nhang cho Mẹ, em để ý chưa
một lần nào anh quên, người Ấn Ðộ tâm
hồn cao đẹp quá anh nhỉ!
- Kan cười " không phải vậy đâu
em cưng, người Ấn Ðộ không tốt như em
tưởng đâu, chẳng qua nhà em nấu nướng
thứ gì mà hôi quá anh không chịu nổi nên phải
đốt nhang cho nó khử bớt mùi vậy thôi, thú
thật mỗi lần anh đến thăm em là vì tình
thương thật sự chứ mỗi lần
đến là mỗi lần bị ngột ngạt cái
mũi của anh em biết không? Nói xong Kan ôm chặt
lấy nàng vì sợ nàng giận, Thiên Kim ngượng chín
cả người, ôi chao người Việt Nam chúng tôi
ăn uống thứ gì mà để ông chê bai như
thế, thì ra vì nguồn gốc tổ tông, nước
mắm, xì dầu, mắm tôm, mắm cá... Rồi mà xem,
cứ chê đi, mai mốt thành vợ thành chồng tớ
sẽ cho nhà ngươi lãnh đủ các món ăn mà nhà
ngươi sợ hãi... Nghĩ thế Thiên Kim cười
một mình, đây là cách trả thù độc đáo
của đàn bà Việt Nam chúng tôi mà...
Cuộc tình Ấn Ðộ Việt Nam kéo dài hơn
hai năm, nàng không bao giờ hỏi Kan làm việc gì và làm
việc ở đâu, chỉ biết chàng bằng tình yêu
chân thật, mỗi ngày chàng mỗi vun quén đậm đà
thêm lên, hàng ngày sau khi đi làm về Kan ghé nhà thăm cha
nàng, mua cho ông vài hộp sâm, vài chai rượu vang ít
tiền, chưa khi nào Kan mời nàng đi shopping mua sắm
ngoại trừ chàng mua thức ăn mang đến cho nàng
nấu nướng và chàng đã biết ăn chút chút
những thức ăn mà trước đây nghe mùi Kan
sợ hãi - Ðêm nay Kan xin phép cha nàng ở lại với Thiên
Kim để bàn việc hôn nhân và được cha
đồng ý. Nằm gọn trong vòng tay thương yêu
của Kan, từ những chiếc hôn nồng nàn chàng trao
gửi, Thiên Kim không mong ước gì hơn được
sống mãi bên Kan với tình yêu tuyệt đẹp như
đêm nay, ngày xưa nhà thơ Xuân Diệu đã có câu
"Yêu là chết ở trong lòng một ít vì mấy khi yêu mà
chắc được yêu, cho rất nhiều nhưng
nhận chẳng bao nhiêu..." Ối chao, chỉ viễn
vông thôi, đã yêu nhau thì cho nhiều cho ít có nghĩa gì
đâu, như Kan và mình đây, Ấn Ðộ và Việt Nam
nghèo bỏ xừ cái thân vẫn yêu nhau hết mình không
thấy sao hỡi nhà thơ Xuân Diệu?
Thắm thoát mùa xuân cũng sắp đến, Kan
đã bàn tháng 12 tổ chức đám cưới, Thiên Kim
dành phần chọn nhà hàng Việt Nam cho nhẹ tiền và
quan khách tham dự của nàng toàn là người Việt Nam
- Kan đồng ý cùng nàng chọn nhà hàng Phú Lâm thức
ăn vừa ngon lại vừa rẻ có tiếng từ
hơn hai chục năm qua - Cả hai hân hoan đến
gặp anh Kim chủ nhân lấy ngày giờ đặt
tiệc.
Sáng nay Kan gọi đến bảo Thiên Kim ở
nhà nghỉ một bữa đi tham quan vài chỗ làm nơi
thung lũng Silicon cùng anh, Kim thầm nghĩ chắc lại
mất việc rồi đây, sợ nàng buồn không dám nói
chăng bởi ngày cưới sắp đến mà không
việc làm, không tiền bạc thì rõ khổ thân em và cả
thân anh, cha mẹ anh thì ở bên Ấn Ðộ, cha em thì nghèo
lấy ai giúp đỡ chúng ta khi đã đến nhà hàng
đặt tiệc, đặt ngày và đặt cọc?
Nàng đi với chàng nhưng lòng buồn rười
rượi chẳng thiết nói cười chỉ ậm ọe
trả lời qua loa khi chàng hỏi - Kan dẫn nàng vào
một tòa Building rộng lớn, một hãng điện
tử tọa lạc trên vùng Fremont, theo Kim biết thì
đây là một hãng điện tử lớn nhất nhì
thành phố Silicon, nàng càng lạ lùng khi thấy Kan cứ
dẫn nàng đi tuồn tuột vào bên trong mà không ai
cản ngăn Kan và nàng cả, Kim không dám hé môi nửa
lời khi thấy dáng vẻ nghiêm chỉnh của Kan và
bộ Veston tươm tất của chàng, bụng Kim
thầm nghĩ "Ði apply job mà ăn mặc giống
như ông chủ, bộ xứ Hoa Kỳ này chuộng
vẻ ngoài mới nhận làm việc hay sao, khéo vẽ
vời chi dữ vậy Kan của em, anh hôm nay mà không
nhận được job là sẽ bị nhỏ khùng này
chọc quê cho mà biết".
Kan dẫn nàng vào phòng cuối cùng, nàng chưa
biết phải ngồi đâu khi nhìn bàn ghế sa cừ
lộng kiếng quá lộng lẫy sang trọng, nàng ké né
đứng bên Kan thì thấy có mấy người vào
gật đầu nghiêm chỉnh chào Kan với những ngôn
từ Ấn Ðộ và tiếng Anh, Kan ngồi xuống
chiếc ghế giữa bàn và nói với họ: 'This is my
fiance' rồi chàng chỉ chiếc ghế kế bên chàng cho
Kim ngồi - Thiên Kim bừng tỉnh, thì ra Kan là ông chủ
hãnh Ðiện Tử to lớn này, bấy lâu nay chàng đã
thử thách con người Kim, thử thách tình yêu của
Kim, mẹ ơi... mẹ ơi... Kim vui mừng nhắc
đến mẹ thân yêu và nước mắt rưng
rưng, nàng cố kềm hãm bởi trước mặt
mọi người nàng nghiễm nhiên là bà chủ và mọi
người đang một mực quý trọng nàng, nàng không
vì xúc động riêng tư mà để lộ niềm hân
hoan bất chợt với mọi người xung quanh.
Tuần sau Kan cho Kim biết là nàng sẽ không
phải đi làm nữa, Kan đưa cha nàng và nàng về
một ngôi nhà mới sang trọng trên đồi Los Altos
Hill - Kan giao hãng cho phụ tá phó Giám Ðốc cai quản, chàng
cùng Kim đi mua sắm nữ trang, quần áo cưới và
mọi vật dụng cần thiết trang hoàng cho ngày
cưới, chàng không quên đặt cho cha vợ hai bộ
Veston và mua tặng ông một chiếc đồng hồ
Rolex đắt giá của Thụy Sĩ.
Hạnh phúc là một thiên đàng tuyệt hảo
dành cho Kim, nàng đã sống đã yêu với sự chân thành
từ trái tim, nàng đã được đền bù
xứng đáng. Sau ngày cưới
Kan
đưa nàng đi hưởng tuần trăng mật
tại
Paris
nơi có những kỳ
quan lịch sử và có những danh lam thắng cảnh
tuyệt vời -
Kan
không quên
mời cả người cha vợ tôn kính cùng đi cho ông
có cơ hội du lịch
Paris
mà ông hằng ao ước.
Tình yêu hạnh phúc sự nghiệp đã chào
đón người phụ nữ Việt Nam thân
thương của chúng ta, trong trái tim người Ấn
Ðộ đã khắc sâu hình ảnh người vợ
Việt Nam trân quý, tác giả viết bài này với lòng
cảm mến thật xâu sa tấm tình tốt đẹp
hiếm có của hai nhân vật trong cốt truyện qua
cuộc sống thật ngoài đời tại thung lũng
Silicon hoa vàng muôn thuở - Có một vài hư cấu cho câu
chuyện súc tích lãng mạn hơn và thấm thía hơn trong
cuộc sống ly hương - Kan và Kim đã sống
hạnh phúc gần 10 năm qua và có với nhau 4 mặt con,
ba gái, một trai, những đứa con lai hai dòng máu
Ấn Việt xinh đẹp và khôn ngoan vô cùng.
=END=
**********************************